Thầy đồ nhận dạy kèm Hán Nôm. Nhằm truyền bá, duy trì sự tồn tại mãi mãi một kiểu chữ riêng biệt của dân tộc, mỗi năm tuỳ theo điều kiện sức khoẻ, thầy đồ Văn Thuần nhận dạy kèm 1 đến 2 học viên học chữ Hán Môm hoặc viết Sớ chữ Nho. Với kinh nghiệm Fahasa Shopee Tiki. Mô tả. Cuốn sách "Toàn Thư tự học chữ hán" được biên soạn đặc biệt dành cho những người tự học chữ Hán, sách cung cấp nội dung phong phú cho nhiều trình độ khác nhau, từ nhập môn đến nâng cao, với những nhu cầu và mục đích có thể khác nhau ít Sau khi học xong và nhớ được các kiểu loại chữ Nôm hiện có trong sách, người học sẽ có cơ sở vững chắc để tự học và đọc tốt các văn bản Nôm. Tập sách này vừa giúp các bạn học chữ Nôm, vừa nhớ chữ Hán. Cho nên ở 10 bài đầu tiên đều có phần tập viết Hán Nôm là những ký tự dựa trên Hán tự được sử dụng tại Việt Nam từ lâu. Chữ Hán Nôm có thể được sử dụng để viết chữ Hán hoặc một hình thức của chữ Việt gọi là chữ Nôm. Về hình thức, chữ Hán Nôm có hai trường phái là viết chữ và thư pháp. Trên thực tế, trình độ của ông Hùng mới chỉ dừng lại ở việc viết chữ, tức là viết đúng và hiểu mặt chữ. Cổ Hán Văn 古漢文. Tháng 6 năm 1912 nước Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản bộ sách Công Hòa Quốc Giáo Khoa Thư - Tân Quốc Văn 共和國教科書•新國文 (gọi tắt là Tân Quốc Văn) để làm tài liệu dạy ở các lớp tiểu học. Bộ sách này gồm 8 quyển dạy chữ Hán từ đầu, rất Font chữ Thảo (孙过庭草体测试版) 2. Cách cài đặt font chữ Hán thư pháp. Cách 1: Bạn mở thư mục Fonts của Windows theo đường dẫn C:\Windows\Fonts. Sau đó bạn copy các file đã giải nén về vào thư mục này, máy tính sẽ thực hiện cài các font chữ cho bạn. Bạn lựa chọn toàn fFal6D6. Khái lược Về Văn học Chữ Nôm Ở Việt Nam Ngay từ đầu Công nguyên cho đến suốt 1000 năm Bắc thuộc sau đó, các dân tộc trên đất nước Việt Nam đã sống trong quá trình cộng cư với nhau và cả với người Hán từ phương Bắc đến. Trải qua quá trình cộng cư này cùng với sự tiếp xúc với chữ Hán và văn hóa Hán, các dân tộc Việt Nam đã dần dần chủ động sử dụng chữ Hán trước hết là trong hành chính và trong giáo dục, rồi cả trong sáng tác văn học, hình thành một nền văn học chữ Hán của chính dân tộc mình. Và từ khi thoát li khỏi sự đô hộ trực tiếp của phong kiến phương Bắc, thì bên cạnh chữ Hán vẫn tiếp tục được coi trọng, người dân bản địa Việt Nam còn sáng tạo ra chữ viết cho bản ngữ của mình. Đó là các hệ thống chữ viết ô vuông theo hình mẫu chữ Hán, được gọi là chữ Nôm Người Kinh tộc người Việt có chữ Nôm Việt, người Tày có chữ Nôm Tày, Với chữ Nôm Việt, ở Việt Nam đã hình thành nên một nền văn chương chữ Nôm bên cạnh văn chương chữ Hán. Và chính trong lĩnh vực sáng tạo văn học, chữ Nôm gắn liền với ngôn ngữ dân tộc đã tạo nên những tác phẩm có giá trị, chiếm những vị trí cao nhất trong văn học cổ điển Việt Nam. Xin trình bày đôi nét khái quát về những chặng đường hình thành các thể thức và thể loại cùng với những tác giả và tác phẩm tiêu biểu của nền văn học chữ Nôm tiếng Việt. 1. THỜI KỲ SƠ KHAI Theo quốc sử Việt Nam thì từ thế kỷ XIII dưới thời nhà Trần, ở Đại Việt đã có nhiều người làm thơ phú bằng chữ Nôm, đặc biệt có Nguyễn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố, song tác phẩm của họ đều đã thất truyền từ lâu. Nguyễn Thuyên 阮 詮 không rõ năm sinh năm mất. Đỗ Thái học sinh Tiến sĩ năm 1247, thời Trần Nhân Tông 陳仁宗 1279-1293. Thượng thư bộ Hình. Năm 1282, có cá sấu vào sông Phú Lương. Vâng mệnh triều đình, ông lập đàn tế và làm bài văn tế bằng chữ Nôm ném xuống sông, cá sấu liền bỏ đi. “Vua cho rằng việc làm này giống như Hàn Dũ 翰愈, nên cho Nguyễn Thuyên đổi thành họ Hàn” Đại Việt sử kí toàn thư. Theo sử sách và gia phả họ Nguyễn ở Cao Bằng, thì Nguyễn Thuyên là người đầu tiên dùng chữ Nôm để chép gia phả họ Nguyễn, viết quốc sử và làm thơ phú quốc âm. Tác phẩm Phi sa tập 披沙集 của ông gồm nhiều bài thơ phú chữ Hán và cả chữ Nôm. Nhưng tất cả đều thất truyền. Tương truyền thơ chữ Nôm của Hàn Thuyên mở đầu cho việc kết hợp thơ ca dân gian người Việt với thể thức thơ Đường có biến đổi về số chữ và niêm luật để có một thể thơ mà người đời sau gọi là thể thơ “Hàn luật”. Gần như cùng thời với Nguyễn Thuyên, có Nguyễn sĩ Cố 阮 士 故 ? – 1312. Ông lãnh chức Nội thị Học sĩ, tức thầy dạy hoàng tử mà sau này là vua Trần Nhân Tông. Ông nổi tiếng đương thời về tài làm thơ Nôm, nhưng tác phẩm cũng đều thất truyền. Tương truyền thơ ông có ý vị trào lộng, gần giống với Đông Phương Sóc 東 方 朔 đời Hán. Trần Khâm 陳欽 1258 – 1308 tức Trần Nhân Tông, vua thứ ba nhà Trần. Cùng vua cha thực hiện đại đoàn kết hoàng tộc và dân chúng, đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông 1285, 1287-88. Từ sau 1299 ông rời Kinh đô, làng mạc, lên ở hẳn núi Yên Tử, dựng chùa tu Phật, lập ra dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà ông là tổ thứ nhất. Trần Nhân Tông viết nhiều tác phẩm thiền học và thơ Thiền bằng Hán văn. Tác phẩm viết bằng chữ Nôm còn lại đến nay có một bài phú và một bài ca. Đó là bài Cư trần lạc đạo phú 居 陳 樂 道 賦 và bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca 得 趣 林 泉 成 道 歌 . Cả hai bài này đều do người đời sau cho vào tập Thiền tông bản hạnh 禪 宗 本 行 , khắc ván in lần đầu vào năm Cảnh Hưng 6 1745. Đó là những bài ca ngợi cảnh thiền và lòng thiền, trong đó con người an nhiên tự tại, sống giữa đời trần mà cũng hòa vui trong đạo. Lý Đạo Tái 李道載 1254 – 1334 tức là sư Huyền Quang, tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm, cùng thời với Trần Nhân Tông. Ông cũng là người viết nhiều tác phẩm về thiền học, và cả thơ chữ Hán. Trong tập Thiền tông bản hạnh nói trên có bài Vịnh Hoa Yên tự phú 詠 華 煙 寺 賦 viết bằng chữ Nôm, là do ông sáng tác. Mạc Đĩnh Chi 莫 挺 芝 1272 – 1346. Ông quê ở Hải Dương, năm 1304 đỗ Trạng nguyên, làm quan dưới triều Trần Anh Tông và Trần Hiển Tông. Sau khi về hưu, mở trường dạy học. Nhà nghèo, nhưng sống thanh liêm, có khí tiết. Ông từng đi sứ phương Bắc, có tài ứng đối và biện luận. Mạc Đĩnh Chi sáng tác nhiều bằng Hán văn, nhưng chỉ còn lại bài phú Ngọc tỉnh liên phú 玉 井 蓮 賦 và bốn bài thơ chữ Hán. Riêng về văn thơ chữ Nôm, ông được coi là tác giả bài Giáo tử phú 教 子 賦 gồm 204 câu, mối câu 4 chữ, được khắc ván in cùng với tác phẩm của vua Trần Nhân Tông và sư Huyền Quang trong tập Thiền tông bản hạnh đã nói ở trên. Chu Văn An 朱 文 安 ? – 1370 đỗ Thái học sinh Tiến sĩ nhưng không làm quan, mở trường dạy học. Những năm 1314 – 1329 được mời về Thăng Long giữ chức Tư nghiệp trường Quốc tử giám. Ông nổi tiếng với Thất trảm sớ 七 斬 疏 chữ Hán đòi chém bảy tên gian thần. Riêng về thơ chữ Nôm ông có Tiều ẩn quốc ngữ thi tập 樵 隱 國 語 詩 集, nhưng nay đã thất truyền. Hồ Quý Ly 胡季 釐 1336 – 1407? là vua đầu tiên triều nhà Hồ, một triều đại ngắn ngủi ở Việt Nam. Ông lên ngôi từ ngai vua nhà Trần năm 1400. Năm 1406, không chống cự nổi quân nhà Minh, cả ba cha con ông bị giặc bắt đưa về Trung Hoa, rồi sau mất ở đó. Hồ Quý Ly là ông vua có tinh thần cải cách táo bạo, cả về quân sự, kinh tế và văn hóa tư tưởng. Nhưng ông vấp phải sự chống đối của phái bảo thủ, không thu phục được nhân tâm, nên dễ thất bại. Riêng về mặt ngôn ngữ văn tự, Hồ Quý Ly là ông vua đầu tiên nêu chủ trương dùng chữ Nôm tiếng Việt thay chữ Hán trong công văn, chiếu chỉ, và cho dịch kinh sách chữ Hán sang chữ Nôm. Chủ trương này về sau, vào cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung 光 中 Nguyễn Huệ 阮 惠, 1753 – 1792 cũng lại đề ra, song đều chưa kịp thực hiện. Bản thân Hồ Quý Ly cũng trước thuật bằng chữ Hán và sáng tác thơ văn chữ Nôm. Nhưng tất cả đều bị nhà Minh tiêu hủy. Sau này, khi thoát khỏi ách thống trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã thu thập lại được 30 bài thơ chữ Nôm của ông, nhưng rồi đến lượt Nguyễn Trãi bị nạn, tất cả đều đã thất lạc. Như vậy, trong suốt hai thế kỷ XIII và XIV, là thời kỳ mở đầu cho nền văn học chữ Nôm, đến nay chỉ còn lại 4 tác phẩm 1 bài ca và 1 bài phú của Trần Nhân Tông, 1 bài phú của Huyền Quang và 1 bài phú của Mạc Đĩnh Chi. 2. THƠ NÔM “HÀN LUẬT” Thơ Nôm “Hàn luật” cải biến từ hai thể “thất ngôn tứ tuyệt” và “thất ngôn bát cú” của thể thức thơ Đường đã xuất hiện từ thời sơ khai, có thể bắt đầu từ Hàn Thuyên. Song ngày nay chỉ có thể nhận diện thể thơ này qua các tác phẩm của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và hội thơ Tao Đàn, và sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nguyễn Trãi 阮 廌 1380 – 1442hiệu là Ức Trai 抑齋 thi đỗ Thái học sinh Tiến sĩ năm 1400 ngay sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi, và được giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Khi giặc Minh xâm chiếm, ông bị quản thúc ở Thăng Long, sau thoát ra, lẩn tránh nhiều nơi, cuối cùng đến với Lê Lợi 黎 利, vạch chiến lược chống quân Minh trên chiến trường cũng như trong giao dịch thư từ. Sau thắng lợi, ông thay minh chủ viết bài Bình Ngô đại cáo 平 吳 大 告 bằng Hán văn, một bản “thiên cổ hùng văn” của dân tộc Việt Nam. Dưới triều Lê Thái Tổ 黎 太 祖 Lê Lợi, Nguyễn Trãi được trọng dụng. Nhưng sau khi Lê Lợi mất, triều đình lục đục, gây bè kéo cánh, khiến Nguyễn Trãi khó bề được yên thân. Ông bèn xin về hưu trí ở Côn Sơn. Cuối năm 1442, vua trẻ Thái Tông ghé thăm trại Lệ Chi Viên của ông, đột nhiên bị cảm chết, ông cùng cả gia tộc liền bị khép tội và chịu án “tru di tam tộc”. Mãi 20 năm sau, mới được vua Lê Thánh Tông xuống chiếu rửa oan cho ông. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông có một sự nghiệp trước tác đồ sộ, về nhiều lãnh vực. Ông làm nhiều thơ, bằng Hán văn và cả bằng chữ Nôm. Sau khi ông bị hại, tác phẩm của ông bị thất tán nhiều nơi. Đến năm 1467, vua Lê Thánh Tông cử người Trần Khắc Kiệm 陳 克 儉 sưu tầm di cảo của ông, nhờ đó mới giữ một phần những tác phẩm quý giá của ông. Dựa vào kết quả sưu tầm của Trần Khắc Kiệm ở thế kỷ XV, Dương Bá Cung 楊 伯 恭 ở thế kỷ XIX đã bỏ ra hàng chục năm tiếp tục sưu tầm, chỉnh lý để đến năm 1868 cho khắc in bộ Ức Trai di tập 抑 齋 遺 集 trong đó có Quốc âm thi tập 國 音 詩 集 gồm 254 bài thơ Nôm. Có thể tập thơ này vẫn chưa phải là toàn bộ những tác phẩm viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, nhưng đây chính là tập thơ chữ Nôm đầu tiên còn lại đến ngày nay, và nó chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong văn học sử Việt Nam. Thơ Nôm Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu tha thiết của ông dành cho nước cho dân với tinh thần nhân nghĩa sâu sắc, đồng thời cũng có cả nỗi thao thức dằn vặt từ cảnh ngộ riêng tư, một cái tôi trữ tình mang màu sắc của cả Nho, Phật và Lão. Tiếng Việt trong thơ giàu hình tượng, ngữ liệu dân gian được sử dụng thích đáng. Hình thức thơ tuy phỏng theo cách luật thơ Đường, nhưng có nhiều biến cải Trong một bài tứ tuyệt hay bát cú, nhiều khi dùng xen những câu 6 tiếng, ở những vị trí không cố định. Nhịp thơ Đường thường ngắt theo kiểu 4-3, còn ở đây có cả cách ngắt nhịp 3-4, 3-3, một lối ngắt nhịp phổ biến của thi ca dân gian người Việt. Đây phải chăng chính là lối thơ “Hàn luật” mà Nguyễn Thuyên là người khởi xướng. Để minh họa cho thể thơ này, xin trích lục một bài thơ tứ tuyệt của Nguyễn Trãi 蓮 花 Liên hoa Hoa sen 淋 洳 拯 变 /卒 和 清 Lầm nhơ chẳng bén, tốt hòa thanh 君 子 困 堪/ 特 所名 Quân tử khôn kham được thửa danh 闧 媫 香 / 店 月 凈 Gió đưa hương, đêm nguyệt tạnh 貞 乄 晫 / 固 埃 爭 Riêng làm của, có ai tranh Hồng Đức quốc âm thi tập 洪德國音詩集. Đây là một tuyển tập thơ Nôm đầu tiên ở Việt Nam, gồm sáng tác của nhà vua đương thời là Lê Thánh Tông 黎 聖 宗 Lê Tư Thành 黎 思 成 , 1442 – 1497 và một số triều thần được gọi là “Hội Tao Đàn”, là kết quả của phong trào sáng tác thơ Nôm ở cung đình do nhà vua khởi xướng. Tập thơ sao chép nhiều lần, theo bản hiện còn gồm 283 bài, không ghi rõ tác giả từng bài, trong đó có lẫn một số bài của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Toàn tập thơ viết theo thể Đường luật thất ngôn bát cú, nhưng cũng có bài pha “lục ngôn” theo kiểu “Hàn luật” của Việt Nam. Nội dung nặng về những đề tài “cao quý”, vịnh người vịnh cảnh, thấm đậm tư tưởng Nho gia. Tuy nhiên, đây là thời thái bình thịnh trị, nên tập thơ cũng toát lên niềm lạc quan, tự hào dân tộc và thiện chí trau giồi ngôn ngữ dân tộc của vua tôi nhà Lê. Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮 秉 謙 1491 – 1585 sống chủ yếu vào thế kỷ XVI. Ông thi đỗ Trạng nguyên năm 1535 và làm quan với nhà Mạc. Ông chán ghét bọn gian thần, dâng sớ xin chém lộng thần, nhưng vua không nghe. Ông thác bệnh về quê. Nhưng sau vì hoàn cảnh bó buộc, ông lại ra làm quan cho đến năm 70 tuổi mới thực sự từ quan. Ông dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, ngồi dạy học trò. Ông là người được cả ba thế lực Mạc, Trịnh, Nguyễn thời bấy giờ tôn trọng, thường đến hỏi về những việc hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm có làm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Về thơ Nôm, ông còn để lại tập Bạch Vân quốc ngữ thi 白 雲 國 語 詩. Tuy nhiên, nguyên cảo thất lạc, các bản sao không thống nhất, lại lẫn lộn một số bài của Nguyễn Trãi, trong đó có khoảng 170 bài là thực sự của ông. Thơ quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ yếu theo thể cách Đường luật, đôi khi pha những câu “lục ngôn”. Đây có thể là những bài thơ Nôm Đường luật cuối cùng có xen lẫn câu thơ lục ngôn với lối ngắt nhịp 3-4. Về sau này có rất nhiều nhà thơ viết theo thể Đường luật đã không tiếp tục sử dụng các câu lục ngôn như thế nữa, trừ một số bài tương truyền là của nữ sĩ Hồ Xuân Hương [xem dưới]. Tập thơ viết khi tác giả ở ẩn nên bao trùm không khí an nhàn ẩn dật, yêu quý thiên nhiên, xa lánh bụi đời, tuy không dứt lòng thương nước lo đời, quan tâm thế sự. 3. DIỄN CA LỊCH SỬ “Diễn ca lịch sử” là những tác phẩm thơ Nôm trường thiên, mà phần lớn nội dung đều dựa vào quốc sử cùng với truyền thuyết dân gian. Diễn ca lịch sử sử dụng hai thể thơ dân tộc Một là thể “lục bát” mỗi khổ hai câu 6 – 8 tiếng với những tác phẩm tiêu biểu như Việt sử diễn âm, Thiên Nam ngữ lục, Đại Nam quốc sử diễn ca. Hai là thể “song thất lục bát” mỗi khổ bốn câu 7 – 7 – 6 – 8 tiếng, các câu “thất ngôn” đều ngắt nhịp 3 – 4, với tác phẩm tiêu biểu là Thiên Nam minh giám. Việt sử diễn âm 越 史 演 音. Tác phẩm gồm câu dòng, trong đó có câu theo thể “lục bát”, còn lại là những câu thất ngôn xen vào ở phần cuối. Chưa rõ tác giả là ai, nhưng lời thơ cho thấy tác giả đã sống và viết tác phẩm này vào khoảng giữa thế kỷ XVI, dưới thời nhà Mạc. Nội dung tác phẩm là kể lại lịch sử Việt Nam qua các triều đại từ thời sơ thủy đến thời nhà Mạc, qua đó thể hiện cảm xúc của mình đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử. Điều đáng lưu ý là với tác phẩm này, lần đầu tiên xuất hiện thể loại diễn ca lịch sử, một thể loại cực kỳ quan trọng trong văn học chữ Nôm, được phát triển mạnh mẽ vào những thế kỷ sau đó. Đây có thể cũng là lần đầu tiên có một tác phẩm chữ Nôm dài hơi viết theo thể “lục bát”, một thể thơ thuần túy của dân tộc Việt Nam. Thiên Nam minh giám 天 南 明 監. Hiện chưa rõ tác giả là ai, có thể là do một nhà Nho trong tôn thất chúa Trịnh vâng mệnh phủ chúa mà viết. Tác phẩm hoàn thành vào khoảng giữa thế kỷ XVII. Cũng là một tác phẩm diễn ca lịch sử Việt Nam, nhưng viết theo thể thơ Việt “song thất lục bát”, dài hơn 938 câu. Đây là lần đầu tiên có một tác phẩm chữ Nôm dài hơi viết bằng thể “song thất lục bát”.Với thể loại diễn ca lịch sử thì tác phẩm này dường như là duy nhất hiện có được viết theo thể thơ này. Nội dung tác phẩm chú yếu nêu gương anh hùng nghĩa sĩ nước Nam, thiên về phẩm bình nhân vật lịch sử. Thiên Nam ngữ lục 天 南 語 錄. Chưa rõ tác giả là ai, có thể là một nhà Nho, nhiều lần thi hỏng, sống ngao du ẩn dật. Về già mới viết sách này theo yêu cầu của chúa Trịnh, nhưng sau rồi cũng không dâng lên chúa, giữ lại làm của báu gia đình. Tác phẩm hoàn thành vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Hiện có 6 dị bản, trong đó bản chép tay đầu thế kỷ XVIII mang ký hiệu là cổ nhất và đầy đủ hơn cả. Cũng như Việt sử diễn âm thời nhà Mạc trước đây vào thế kỷ XVI hoặc Đại Nam quốc sử diễn ca 大 南 國 史 演 歌 sau này ở thế kỷ XIX 1870, Thiên Nam ngữ lục thuộc loại diễn ca lịch sử, viết theo thể “lục bát”. Nhưng đây là tác phẩm thành công nhất về nhiều phương diện, đặc biệt là ngôn ngữ văn học tiếp cận với lời nói dân gian, giàu hình tượng và cảm xúc với khối lượng phong phú các thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt. Điều quan trọng cần đặc biệt lưu ý là Thiên Nam ngữ lục là tác phẩm lục bát văn vần nói chung có độ dài lớn nhất trong văn học Việt Nam. Tác phẩm gồm câu thơ “lục bát”, kèm theo 2 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú và 31 bài vừa thơ vừa sấm ngữ bằng chữ Hán. Có thể nói đây là lần đầu tiên thể thơ “lục bát” được thử thách trong một tác phẩm thi ca trường thiên, chứng minh cho khả năng biểu đạt vô tận của thể thơ, chuẩn bị cho nó tiến tới hoàn thiện thêm trong hàng loạt truyện thơ Nôm trường thiên ở những thế kỷ sau. Đại Nam quốc sử diễn ca 大 南 國 史 演 歌 hiện được biết đến là một tác phẩm diễn ca lịch sử viết theo thể lục bát, mà tiền thân của nó có thể là tập Sử ký quốc ngữ ca 史 記 國 語 歌 của một tác giả khuyết danh, được nộp vào Viện Tập hiền của nhà Nguyễn. Tập sử ca này đã được Lê Ngô Cát 吳 黎 吉 quê Hà Tây, không rõ năm sinh năm mất, đỗ Cử nhân năm 1848 thời Tự Đức, làm quan ở Quốc sử quán sửa chữa, bổ sung, làm thành tác phẩm mới dài câu lục bát. Đến khi Phạm Đình Toái 範 廷 碎 quê Nghệ An, không rõ năm sinh năm mất, đỗ Cử nhân năm 1843 thời Thiệu Trị, làm quan đến Hồng Lô tự khanh đọc lại, cắt bỏ nhiều đoạn rườm rà, bổ sung những chỗ thiếu sót và sắp xếp lại, làm thành bản mới, gọn hơn, gồm câu lục bát, đặt tên là Đại Nam quốc sử diễn ca, được khắc ván năm 1870. Tác phẩm này được soạn theo lệnh của vua Tự Đức, nên trong đó có không ít thiên kiến của nhà Nguyễn đối đối với các nhân vật và sự kiện lịch sử trước mình, nhất là với triều Tây Sơn . Tuy nhiên, những trang viết về thời Hồng Bàng, thời Hai Bà Trưng, về các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, quân Minh đã gây được không khí hào hùng, mang đậm tinh thần tự hào dân tộc. 4. NGÂM KHÚC THỂ NGÂM “Ngâm khúc” là một thể loại thơ Nôm trường thiên. Đó là những tác phẩm trữ tình dài hơi, chuyên sử dụng thể thơ “song thất lục bát” để phô diễn tình cảnh và tâm tư của nhân vật trữ tình. Có 2 tác phẩm tiêu biểu cho thể loại này là Chinh phụ ngâm khúc và Cung oán ngâm khúc. Ngoài ra còn có Ai tư vãn 哀思 輓, gồm 164 câu song thất lục bát, là tiếng khóc và lời thở than của công chúa Lê Ngọc Hân 黎 玉 昕 1770 – 1799, vợ vua Quang Trung, sau cái chết đột ngột của nhà vua; Tự tình khúc 敘 情 曲 của Cao Bá Nhạ 高 伯 迓 thế kỷ XIX gồm 608 câu song thất lục bát, là lời kêu than của tác giả trong thời gian bị cầm tù vì liên quan với vụ án của chú mình là Cao Bá Quát 高 伯 适 1808 – 1885. Chinh phụ ngâm khúc 征 妇 吟 曲. Nguyên tác Hán văn của nhà thơ Việt Nam Đặng Trần Côn 鄧 陳 琨, thế kỷ XVIII, dài 438 câu theo thể “trường đoản cú”, xuất hiện năm 1741. Liền ngay sau đó lần lượt có 4 bản dịch sang thơ Nôm. Bản dịch thành công nhất được lưu hành rộng rãi, theo ván khắc năm 1902, gồm 412 câu thơ, thể “song thất lục bát”. Bản này tương truyền là do bà Đoàn Thị Điểm 段 氏 點 , 1705 – 1748 chuyển dịch. Song gần đây có nhiều người nghiêng về phía khẳng định Phan Huy Ích 潘 輝 益, 1750 – 1822 mới là dịch giả của bản hiện đang lưu hành. Chinh phụ ngâm là một lời độc thoại nội tâm mà nhân vật trữ tình duy nhất trong tác phẩm là một người vợ có chồng gặp thời loạn phải ra đi chinh chiến. Lý tưởng lập công danh không ngăn được nỗi niềm cô quạnh và ước mong được sống hạnh phúc cùng chồng nơi quê nhà. Đây có thể là tác phẩm ngâm khúc đầu tiên mà thành công của nó chứng minh cho khả năng của thể “song thất lục bát” trong việc phô diễn những cảnh tượng bi tráng và tâm trạng sầu muộn triền miên của nhân vật trữ tình. Để minh họa cho thể thơ này, xin trích một khổ thơ mở đầu tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc theo bản khắc năm 1902 糓 俼 坦 常 欺 陿 桙 Nhẽ trời đất thường khi gió bụi 客 牤 紅 蜫 餒 迍 邅 Khách má hồng nhiều nỗi truân chiên 籑 箕 深 瀋 層 珕 Xanh kia thăm thẳm tầng trên 為 埃 蔐 孕 朱 戼 餒 尼 Vì ai gây dựng cho nên nỗi này Nguyên tác Hán văn của Đặng Trần Côn 天 地 風 塵 .紅 顏 多 迍 Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân 悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因 Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân Cung oán ngâm khúc 宮 怨 吟 曲. Tác giả khúc ngâm là Nguyễn Gia Thiều 阮嘉韶 1741 – 1798, sinh trưởng trong một gia đình quý tộc, là cháu ngoại chúa Trịnh Cương 鄭 綱, ? – 1729. Ông học rộng, am hiểu nhiều môn nghệ thuật âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Cung oán ngâm khúc theo bản in khắc ván năm 1902 dài 356 câu thơ “song thất lục bát”. Khúc ngâm trường thiên này là lời tự bạch nỗi niềm cô đơn chán chường của người cung nữ bị bỏ rơi, đồng thời cũng là lời gửi gắm những suy tư của tác giả về nhân sinh và thế giới. Tác phẩm rất giàu sức biểu cảm có tiếng nói trữ tình từ cảnh ngộ cá nhân của nhân vật trữ tình, vừa có tiếng nói triết lý về kiếp nhân sinh từ những suy tư của tác giả. Với tác phẩm này, thể “song thất lục bát” đã đi đến chỗ hoàn thiện ở mức đỉnh điểm cách luật hoàn toàn chặt chẽ, chuẩn mực, không chấp nhận những ngoại lệ như ở các tác phẩm khác. Ngôn ngữ văn học ở đây được gọt giũa kỹ càng, biện pháp điệp từ sử dụng rất khéo léo, tạo được cảm xúc. 5. TRUYỆN NÔM THỂ TRUYỆN Đây là một thể loại văn học viết theo văn vần, có cốt truyện tức là một loại tiểu thuyết văn vần, rất phát triển ở Việt Nam mà ở Trung Hoa hầu như không có, đặc biệt thịnh hành từ cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX. Có tới hàng trăm tác phẩm thuộc loại này, mà đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Truyện Nôm sử dụng thể thơ “lục bát” là chủ yếu, song cũng có một số ít tác phẩm dùng thể Đường luật. “Truyện Nôm Đường luật” thường dựa theo một cốt truyện đơn giản để viết thành một loạt các bài thơ “thất ngôn bát cú” 七 言 八 句 liên hoàn. Loại này xuất hiện khá sớm, ngay từ thế kỷ XVI, nhưng tác phẩm không nhiều, giá trị văn học không cao. Nay chỉ còn lại 3 tác phẩm là truyện Tô Công phụng sứ 蘇 公 奉 使 傳 , xuất hiện vào thế kỷ XVI, lấy tích Tô Vũ đi sứ nước Hồ, toàn văn gồm 24 bài thơ bát cú luật Đường. Cũng ở thế kỷ XVI có Truyện Vương Tường 王 嬙 傳 [xem dưới], sang thế kỷ XVII có truyện Lâm tuyền kỳ ngộ 林 泉 奇 遇 傳 còn gọi là truyện Bạch Viên Tôn Các 白 猿 孫 恪 傳 gồm 146 bài thơ thất ngôn bát cú và 1 bài tứ tuyệt. Có thể lấy Truyện Vương Tường làm đại diện Truyện Vương Tường 王 祥傳 . Cốt truyện mượn từ tích đời Hán, viết về cuộc đời của Vương Tường tức Vương Chiêu Quân 王 昭 君 được tuyển làm cung nữ dưới thời Hán Nguyên Đế 漢 元 帝, vì không đút lót nên thợ vẽ Mao Diên Thọ 毛 延 壽 vẽ xấu đi, khiến nhà vua không để ý đến. Nhân có vua nuớc Hồ cầu thân, vua Hán liền đem Chiêu Quân gả cho vua Hồ. Đến lúc ấy vua Hán mới biết nàng đẹp, lấy làm tiếc. Sang đến cung vua nước Hồ, nàng tự vẫn. Đây là một truyện tiêu biểu cho loại “Truyện Nôm Đường luật”. Không rõ tác giả là ai. Giới nghiên cứu ước đoán tác phẩm này ra đời khá sớm, vào khoảng đầu thế kỷ XVI. Truyện gồm 49 bài thơ “thất ngôn bát cú”, trong đó có 38 bài chính truyện, 10 bài là lời than tiếc của người đời và 1 bài kết luận. Câu thơ trau chuốt, bút pháp thơ Đường vững vàng. Song có thể là do hạn chế của khuôn khổ thơ cách luật “thất ngôn bát cú”, khó diễn tả liền mạch cốt chuyện, nên kết cấu có phần rời rạc. Đây là nhược điểm chung của loại “Truyện Nôm Đường luật” khiến nó không phát triển và tỏ ra “lép vế” hẳn so với loại “Truyện Nôm lục bát”. “Truyện Nôm lục bát” chỉ dùng thể “lục bát”, đôi khi có thể xen kẽ vài bài thơ Đường luật, hoặc một số câu thất ngôn. Cốt truyện có thể lấy từ lịch sử và văn học Trung Hoa, hoặc lấy từ lịch sử và sự tích dân gian Việt Nam. Số lượng truyện Nôm lục bát rất phong phú, hiện còn hàng trăm tác phẩm, nhiều truyện đạt tới giá trị nghệ thuật cao. Trong số các truyện Nôm lục bát hơn phân nửa tác phẩm không mang tên tác giả thường được gọi là “Truyện Nôm khuyết danh”. Có thể phân các “truyện Nôm lục bát” thành 2 loại như sau Một loại là những truyện mang đậm màu sắc dân gian, kể chuyện bình dị, lời thơ gần với khẩu ngữ , tác giả không rõ là ai, thường được gọi là “Truyện Nôm khuyết danh” hoặc “Truyện Nôm bình dân”. Những truyện loại này hiện còn hơn 100 tác phẩm. Tiêu biểu cho loại này là những tác phẩm như Phạm Tải Ngọc Hoa 範 載 玉 花 , thế kỷ XVIII, gồm 872 câu lục bát; Tống Trân Cúc Hoa 宋 珍 菊 花 [xem dưới]; Phạm Công Cúc Hoa 範 公 菊 花 [xem dưới]; Phương Hoa 芳 花 , thế kỷ XVIII-XIX, theo truyện kể dân gian, gồm 1152 câu lục bát, Thạch Sanh 石 生 , thế kỷ XVIII, theo truyện cổ tích Việt Nam, gồm 1812 câu lục bát, Có thể lấy truyện Tống Trân Cúc Hoa và Phạm Công Cúc Hoa làm đại diện Tống Trân Cúc Hoa 宋 珍 菊 花 là câu chuyện thuần túy Việt Nam, không lấy tích từ Trung Hoa. Tác phẩm kể chuyện đôi trái gái nhà nghèo Tống Trân và Cúc Hoa, vượt qua mọi gian nan thử thách từ phía các thế lực quan lại và quý tộc, bằng tất cả lòng kiên trinh và tài năng của mình, để bảo vệ tình yêu. Trong truyện còn kể chuyến đi sứ của Tống Trân, thể hiện tài năng và lòng tự tôn dân tộc của chàng trong việc bang giao. Mặc dù bị chàng chối từ, nhưng công chúa nước Tàu vì quá yêu chàng, đã vượt bể sang nước Việt tìm chàng. Và Cúc Hoa đã vui lòng để cho chàng cưới thêm công chúa Trung Hoa. Truyện gồm 1690 câu thơ lục bát, xuất hiện vào khoảng từ giữa thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX. Ngôn ngữ văn học trong tác phẩm rất gần với lời ăn tiếng nói của dân gian. Hầu như không dùng điển cố và rất ít từ Hán Việt. Trong truyện nhiều khi mang đậm nét truyện kể truyền miệng, do đó có phần thiếu trau chuốt. Phạm Công Cúc Hoa 範 公 菊 花 kể chuyện ở nước Trịnh nào đó, nhưng tên làng tên đất cùng quang cảnh non nước, cung cách sinh họat đều là thực tế ở Việt Nam. Đây là một truyện Nôm có dung lượng lớn, gồm câu lục bát theo bản in ván khắc năm 1889, có thể là tác phẩm dài hơi nhất trong số các truyện Nôm hiện còn. Phạm Công là trẻ mồ côi, dắt mẹ đi ăn xin, rồi may mắn được con gái quan phủ là Cúc Hoa đem lòng yêu, và được kết duyên vợ chồng. Song vì tài vì mệnh, vì lòng kiên trinh, họ phải chịu lắm nỗi gian nguy, vợ chồng con cái sinh ly tử biệt. Truyện phản ánh những quan hệ vợ chồng, anh em, mẹ ghẻ con chồng rất sâu sắc và cảm động. Đây hầu như là truyện Nôm duy nhất mô tả cảnh âm phủ với những tình tiết cụ thể sinh động theo trí tưởng tượng dân gian trong mối liên tưởng với thực trạng xã hội ở trên dương thế. Một loại khác là những tác phẩm do các văn nhân sáng tác, văn liệu tiếp thu từ văn hiến Trung Hoa, ngữ liệu tận dụng vốn thành ngữ, tục ngữ và ca dao dân gian. Bởi vậy, so với loại “bình dân” ở trên, thì ở loại này ngôn ngữ văn học được trau chuốt hơn, có sức diễn đạt phong phú, đạt tới giá trị nghệ thuật cao hơn. Tiêu biểu cho loại này là Truyện Kiều của Nguyễn Du [xem dưới] . Ngoài ra có thể kể một loạt tác phẩm như Song Tinh Bất Dạ 雙 星 不 夜 của Nguyễn Hữu Hào 阮 有 豪 ? – 1713, lấy cốt truyện từ tiểu thuyết Định tình nhân 定 情 人 ở Trung Hoa, gồm câu; Hoa tiên 花 箋 của Nguyễn Huy Tự 阮 輝 嗣 1743 – 1790, lấy cốt truyện từ Hoa tiên ký 花 箋 記 ở Trung Hoa, gồm câu; Sơ kính tân trang 梳 鏡 新 妝 của Phạm Thái 範 彩 1777 – 1813, là tự truyện về tình duyên trắc trở của tác giả, gồm câu lục bát và một số bài thơ Đường luật; Phan Trần 潘 陳 lấy cốt truyện từ truyện ký Trung Hoa, chưa rõ danh tính tác giả, xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX, gồm 938 câu lục bát; Lý Văn Phức 李 文 馥 1785 – 1849 là tác giả của một số truyện nổi tiếng Tây sương 西 廂 gồm câu lục bát, truyện dựa theo hí khúc Tây sương ký 西 廂 記 của Vương Thực Phủ 王 實 甫thời nhà Nguyên; Nhị độ mai 二 度 梅 gồm câu lục bát, dựa theo tiểu thuyết Trung Hoa Trung hiếu tiết nghĩa nhị độ mai 忠 孝 節 義 二 度 梅 ; Ngọc Kiều Lê 玉 翹 黎 , gồm câu lục bát, cũng có thể lấy cốt truyện từ một tiểu thuyết ở Trung Hoa; Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 炤 1822 – 1888 là tác giả của hai truyện Nôm nổi tiếng khác Lục Vân Tiên 陸雲仙 [xem dưới] và Dương Từ Hà Mậu 楊 慈 何 茂 , gồm câu lục bát – một độ dài lớn nhất trong số các truyện Nôm hiện còn. Cả hai truyện đều là sáng tác của nhà thơ, không lấy cốt truyện từ Trung Hoa. Truyện Kiều 翹 傳 là tác phầm chủ yếu của Nguyễn Du 阮 攸 1765 – 1820, nhà đại thi hào dân tộc Việt Nam. Sinh trưởng trong một gia đình danh gia vọng tộc cha làm quan đến Tể tướng, anh làm quan đến Tham tụng, nhưng gặp nhiều trắc trở. Năm 1783 thi Hương đậu Tam trường, sau không thi tiếp nữa. Thuở nhỏ ở Thăng Long, lớn lên gặp thời tao loạn từ khởi nghĩa Tây Sơn đến Nguyễn Ánh khôi phục lại Nhà Nguyễn phải nay đây mai đó, cuối cùng về quê ở Nghệ An, sống gần với dân gian. Có ra làm quan với nhà Nguyễn một thời gian, từng được cử đi sứ nhà Thanh. Nguyễn Du có một sự nghiệp sáng tác văn học đồ sộ, cả bằng chữ Hán và bằng chữ Nôm. Riêng về văn chương chữ Nôm, ngoài Truyện Kiều, ông còn để lại một vài tác phẩm ngắn, mà tiêu biểu là bài Văn tế thập loại chúng sinh 十 類 眾 生 祭 文 , một bài văn chiêu hồn đối với mọi kiếp người đã chết trong bất cứ cảnh ngộ nào, thể hiện lòng thương người bao la của nhà thơ. Truyện Kiều là cách gọi tắt của người đời sau, nguyên tên do tác giả đặt là Đoạn trường tân thanh 斷 腸 新 聲 . Cốt truyện dựa theo tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện 金 雲 翹 傳 của Thanh Tâm Tài Nhân 青 心 才 人 ở Trung Hoa. Nhưng nếu như tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân không gây được chú ý ở Trung Quốc, thì Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du là tác phẩm văn học kiệt xuất, ngay từ khi vừa ra đời khoảng 1804 – 1809 đến nay đã được mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam yêu thích, và được thế giới nhiệt liệt đón nhận, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau. Nguyễn Du là người Việt Nam thứ hai thế hệ sau Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều kể chuyện 15 năm lưu lạc của nhân vật chính là nàng Thúy Kiều 翠 翹 . Thúy Kiều là một tiểu thư xinh đẹp, tài hoa, có tình yêu tự do và trong sáng với chàng thư sinh Kim Trọng 金 重 . Chế độ phong kiến suy tàn với đầy rẫy những thế lực đặc biệt là quan lại liên kết với thương gia đã xô đẩy nàng vào cảnh đời ca kỹ, tôi đòi. Toàn bộ câu chuyện với mọi diễn biến về tình tiết và tâm lý nhân vật làm thành bản cáo trạng đối với những bất công, tàn bạo trong xã hội, là tiếng kêu xé lòng đối với tình yêu và thân phận những con người bị chà đạp, là ước vọng vươn tới giành lại quyền sống cho họ. Tác phẩm thấm đượm tinh thần nhân đạo sâu sắc, với bút pháp hiện thực giàu chất trữ tình. Bản in cũ nhất và còn lại trọn vẹn cho đến nay là bản Liễu Văn Đường 1871 và bản Duy Minh Thị 1872. Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm có độ dài lớn, gồm câu thơ, theo thể “lục bát”. Đây là tác phẩm thành công và tiêu biểu về nhiều phương diện, là đỉnh cao của văn học Việt Nam thời Trung đại. Riêng về mặt ngôn ngữ thơ, tác giả đã rất nhuần nhuyễn trong việc sử dụng văn liệu Trung Hoa kết hợp với ngữ liệu dân gian Việt Nam. Tiếng Việt trong Truyện Kiều đánh dấu cho trình độ tinh luyện, chuẩn mực và giàu sức biểu hiện. Đây là tác phẩm truyện thơ Nôm trường thiên mà trong đó thể thơ “lục bát” đạt tới mức điển phạm, chuẩn mực, không chấp nhận bất cứ những gì thô sơ, vụng về, phá cách như trong các truyện Nôm khác. Để minh họa, xin trích hai khổ đầu 4 câu từ văn bản Truyện Kiều khắc in năm 1871 炧 璏 瑉 憥 圡 些 Trăm năm trong cõi người ta 岲 才 岲 命 窖 卥 唙饒 Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau 惐 戈 沒 局 帀 盙 Trải qua một cuộc bể dâu 仍 調 饢 獕 乑 僘 妿 峼 Những điều trông thấy đã đau đớn lòng Lục Vân Tiên 陸雲 仙 là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 炤 1822 – 1888. Ông nguyên quán tỉnh Thừa Thiên, sinh tại Gia Định nay thuộc Tp Hồ Chí Minh, mất tại Bến Tre. Đỗ Tú tài 1843 tại trường thi Gia Định, sau ra Huế chờ kỳ thi năm Kỷ Dậu 1849, nhưng chưa thi thì được tin mẹ mất, ông vội về Gia Định chịu tang, trên đường vì thương khóc nhiều, ông bị mù cả hai mắt. Truyện Lục Vân Tiên ra đời sau đó ít lâu, và mau chóng được độc giả yêu thích, nhất là trong dân chúng Nam Bộ. Tác phẩm này có rất nhiều bản viết tay và bản in khác nhau. Riêng bằng chữ Nôm hiện có tất cả 7 bản, trong đó bản Lục Vân Tiên truyện 蓼 雲 仙 傳 do Duy Minh Thị cho khắc ván in tại Gia Định năm Giáp Tuất 1874 là bản xưa nhất còn lại. Theo bản này thì toàn văn gồm có 2176 câu lục bát và 1 bài “thất ngôn bát cú” chữ Hán. Lục Vân Tiên, nhân vật chính trong truyện là một chàng trai trí dũng song toàn, đề cao trung hiếu tiết nghĩa. Trải qua bao gian nan thử thách, chàng đã được hưởng hạnh phúc cùng người yêu chung thủy là Kiều Nguyệt Nga. Hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện trong truyện luôn luôn đối kháng rạch ròi, và cuối cùng những người chính nhân quân tử giúp dân cứu nước phải hoàn toàn chiến thắng, trường trị kẻ gian manh độc ác, lừa thầy phản bạn. Có thể coi Lục Vân Tiên là một bản trường ca đề cao chính nghĩa và những đạo đức đáng quý đáng trọng trong đời sống người dân Việt Nam. Mặc dù là một nhà Nho, nhưng ngôn ngữ kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu đậm màu sắc dân gian, lời thơ gần với giọng điệu nói và kể, rất bình dị và chất phác. 6. PHÚ NÔM và VĂN TẾ NÔM Trong văn học Việt Nam cũng như ở Trung Hoa, phú 賦 là một thể văn có từ rất rất sớm, có phú chữ Hán và phú chữ Nôm. Phú chữ Nôm có thể bắt đầu từ thời Trần thế kỷ XIII, như hai bài phú đã nhắc đến ở trên của vua Trần Nhân Tông và sư Huyền Quang. Nội dung của phú Nôm thường ca ngợi cảnh sắc non sông, xưng tụng công tích anh hùng, hoặc phê phán trào lộng, nghị luận sự tích, nhân vật. Những tác phẩm và tác gia nổi tiếng về phú Nôm có thể kể Phụng thành xuân sắc phú 鳳 城 春 色 賦 của Nguyễn Giản Thanh 阮 簡 青 1482 – ?, Tịch cư ninh thể phú 僻 居 寧 體 賦 và Đại Đồng phong cảnh phú 大 同 風 景 賦 của Nguyễn Hàng 阮 杭 thế kỷ XVI, Ngã Ba Hạc phú 我 巴 鶴 賦 của Nguyễn Bá Lân 阮 伯 燐 1701 – 1785, Trương Lưu hầu phú 張 留 侯 賦 , Quách Tử Nghi phú 郭 子 儀 賦 của Nguyễn Hữu Chỉnh 阮 有 整 ? – 1787, Tụng Tây Hồ phú 訟 西 湖 賦 của Nguyễn Huy Lượng 阮 輝 涼 ? – 1808, Chiến tụng Tây Hồ phú 戰 訟 西 湖 賦 của Phạm Thái 範 彩 1777 – 1813, Hàn nho phong vị phú 寒 儒 風 味 賦 của Nguyễn Công Trứ 阮 公 著 1778 – 1858, Tài tử đa cùng phú 才 子 多 窮 賦 của Cao Bá Quát 高 伯 适 1808 – 1885, Văn tế 祭 文 chữ Nôm với tư cách là những tác phẩm văn học còn lại với thời gian thường không chỉ mang chức năng nghi lễ tín ngưỡng, mà đó là những tác phẩm chứa chan tình cảm với những người đã khuất, những người thân thiết của tác giả hoặc những anh hùng liệt sĩ, những người có số phận bất hạnh trong xã hội. Văn tế được viết bằng nhiều thể thức khác nhau, có thể là văn biền ngẫu, có thể là song thất lục bát. Song phần lớn là những bài văn tế viết theo thể phú. Có nhiều bài văn tế Nôm nổi tiếng của các tác giả như Văn tế chị 祭 姊文 của Nguyễn Hữu Chỉnh ? – 1787, Văn tế thập loại chúng sinh 十 類 眾 生 祭 文 của Nguyễn Du 1765 – 1820, Văn tế Trương Quỳnh Như 祭 張 瓊 茹 文 của Phạm Thái 1777 – 1813, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 芹 勺 義 士 祭 文 của Nguyễn Đình Chiểu 阮 廷 炤 1822 – 1888 7. THƠ NÔM ĐƯỜNG LUẬT Văn nhân người Việt làm quen với cách luật thơ Đường từ rất sớm. Bước đầu thử mô phong thể thơ này để làm thơ tiếng Việt, các nhà thơ đã không theo sát thể thức Đường luật như khi làm thơ chữ Hán, mà có cải biến ít nhiều, tạo thành lối thơ Việt hóa “Hàn luật”. Lối thơ Đường luật Việt hóa này đã không được các thế hệ thi nhân đời sau kế thừa và phát huy. Từ thế kỷ XVII trở đi văn đàn Việt Nam hầu như vắng bóng các bài thơ Nôm “phá cách” như vậy trừ một số bài tương truyền là của Hồ Xuân Hương, mang sắc thái trào phúng theo lối dân gian, thay vào đó là những bài thơ chữ Nôm tuân thủ nghiêm chỉnh cách luật thơ Đường. Có thể nói rằng các nhà thơ Việt Nam thời trung đại ai cũng từng làm thơ Đường luật, chữ Hán và cả chữ Nôm. Tuy nhiên, không phải tác giả nào cũng thực sự thành công. Các nhà thơ để lại ấn tượng rõ nét nhất về thơ Nôm Đường luật là Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương [xem dưới]. Ngoài ra còn phải kể đến Bà Huyện Thanh Quan 婆 縣 清 觀 tên thực là Nguyễn Thị Hinh 阮 氏 馨 , đầu thế kỷ XIX với chùm bài thơ mang nặng tâm trạng hoài cổ; Mạc Thiên Tích 莫天 錫 1706 – 1780 với tập Hà Tiên quốc âm thập vịnh 河 仙 國 音 十 詠 ; Phan Văn Trị 潘 文 治 1830 – 1910 với nhiều bài thơ vịnh vật vịnh cảnh và 10 bài thơ họa chế giễu bọn văn nhân cam tâm theo giặc. Hồ Xuân Hương 胡 春 香 cuối XVIII đầu XIX. Cho đến nay, giới nghiên cứu vẫn chưa biết chính xác năm sinh năm mất cùng thời gian sáng tác của bà, cũng như chưa xác định được rõ toàn bộ tác phẩm của bà. Bà nổi tiếng là “bà chúa thơ Nôm”, với khoảng hơn 50 bài thơ Nôm luật Đường, được sưu tập và chép lại vào năm 1893. Trong số đó có lẫn một số bài của người khác. Gần đây phát hiện tập Lưu hương ký 留 香 記 , trong đó có 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm, ngờ rằng đó là thơ của Hồ Xuân Hương, song cũng chưa thật chắc chắn. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói về những cảnh ngộ riêng tư của người phụ nữ, những nỗi khổ và bất công mà họ phải hứng chịu làm vợ lẽ, chửa hoang, góa chồng. Nhưng thái độ của bà là không kêu than, không bi lụy, mà với đầy đủ ý thức về giới tính, bà khuyên chị em hãy ngẩng cao đầu làm người, đòi lại quyền bình đ? Ngoài văn hoá dân gian truyền miệng còn có dòng văn học chữ viết, lúc đầu là chữ Hán, sau chữ Nôm rồi đến chữ Quốc ngữ như ngày nay. Dòng văn học này trải qua nhiều thời kì. Những văn bản sớm nhất hiện tìm thấy có từ thế kỉ thứ X, tạm chia làm hai giai đoạnTừ thế kỉ thứ X đến thế kỉ XIX Từ đầu thế kỉ XX đến này. Bạn đang xem Các tác phẩm văn học chữ hán Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX Trong giai đoạn này, văn học thành văn được viết bằng hai thứ chữ chữ Hán và chữ Nôm. Mặc dù trải qua một nghìn năm Bắc thuộc, người Việt Nam không bị đồng hoá mà dần dần hình thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Chữ Nôm xuất hiện từ rất sớm nhưng từ thế kỉ XVI trở đi văn học chữ Nôm mới thịnh hành và đến thế kỉ XVIII thì văn học chữ Nôm chiếm một vị trí rất lớn. Sự phát triển về ý thức dân tộc đã tạo điều kiện cho văn học chữ Nôm ngày càng phát triển. Văn học chữ viết hình thành và phát triển Trong nhiều thế kỉ, văn học chữ Hán chiếm vị trí chủ yếu trừ một vài trường hợp như triều Hồ Quý Ly và Quang Trung coi trọng chữ Nôm, tuy sử dụng chữ Hán nhưng các tác phẩm văn học ấy vẫn thấm đượm tính cách và tâm hồn Việt Nam như bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, những bài thơ ca ngợi chiến thắng của quân dân nhà Trần của Phạm Ngũ. Lão, Trần Quang Khải, Phạm Sư Mạnh, Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, vv. Tiếp đến là những bộ sử dược viết với một ý thức dân tộc mạnh mẽ Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, w. Thế kỉ XV, văn học chữ Hán vẫn chiếm ưu thế. Tuy vậy văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Nguyễn Trãi là người nêu cao tiếng Việt và vận dụng chữ Nôm vào sáng tác văn học. Tập thơ Quốc Âm thi tập của Nguyễn Trãi trong thời kì này là một trong những tập thơ Nôm xưa nhất có giá trị đến ngày nay. Từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ chiếm ưu thế hoàn toàn trên văn đàn. Những nhà thơ lớn đã khai thác triệt để ngôn ngữ của dân tộc, nhiều tác phẩm tiêu biểu ra đời Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, w, Từ đầu thế kỉ XX đến nay. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, các tác phẩm văn học bằng chữ Quổe ngữ dần dần xuất hiện. Nền văn học Việt Nam hiện nay không chỉ tiếp thu và chịu ảnh hưởng của nền văn học Trung Quốc mà còn tiếp thu cả nền văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp, đã đưa nền văn học Việt Nam phong phú hơn và đa dạng hơn về thể loại. Văn học Việt Nam dần dần đã tách khỏi phong cách cổ điển với những điển tích nặng nề, linh hoạt hơn, chính xác hơn và gần với ngôn ngữ hàng ngày hơn. Năm 1925, những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam ra đời Tố Tàm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật. Phong trào thơ mới được coi là “một cuộc cách mạng” trong thơ ca, những quy tắc gò bó, lối diễn đạt ước lệ, công thức bị phá bỏ, cảm xúc được diễn tả tự nhiên, cởi mở hơn, lãng mạn hơn. Xem thêm Trong phong trào thơ mới xuất hiện nhiều nhà thơ tài năng Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Vũ Đình Liên, Xuân Diệu, Huy Cận, Tản Đà, more Ý Nghĩa Của Từ Ew Nghĩa Là Gì Trong Tiếng Việt? Ew Là Gì, Ew Viết Tắt, Định Nghĩa, Ý Nghĩa Về Văn học lãng mạn nổi lên có nhóm Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 gồm Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam và một số nhà văn trẻ, w. Dòng văn học này tuy có nhiều tiến bộ trong sáng tác nhưng không tránh khỏi những hạn chế về mặt tư tưởng. Bên cạnh trào lưu văn học lãng mạn phải kể đến dòng Văn học hiện thực phê phán. Các sáng tác của trào lưu văn học này có tính chân thực cao và thăm đượm tinh thần nhẫn dạo. Trào lưu này đã cho ra dời những tác phẩrn thật sự xuất sắc cả về nội dung và hình thức như Bước dường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tẩt Tố, Vỡ đê, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Bi vò của Nguyễn Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, w. Cùng với hai trào lưu trên còn có trào lưu Văn học cách mạng nhưng không được lưu hành hợp pháp tuy có lúc được lưu hành hợp pháp. Trào lưu văn học này gồm những thơ văn của các chiến sĩ cách mạng ở trong tù và những tác phẩm được xuất bản trên báo chí nước ngoài. Những tác giả tiêu biểu cho trào lưu này là Hồ Chí Minh, Sóng Hồng, Tố Hữu, Xuân Thuỷ, vv. Cuộc cách mạng tháng Tám thành công, nền Văn học hiện đại được phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm ra đời trong thời kì này như những mốc son đánh dấu từng giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc. Các tác phẩm Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tầm, Xung Kích của Nguyễn Đình Thi, Tuỳ bút của Nguyễn Tuân, w. là thành quả của nền văn học trong những năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc kháng chiến chống Mĩ kéo dài 21 năm, nhiều tác phấm văn học nổi tiếng đã ra đời, phản ánh cuộc đấu tranh vô cùng anh dũng của đồng bào và chiến sĩ cả nước như Hòn đất của Anh Đức, Gia đình má Bẩy, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Trên đất Quảng, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi. Và các tác phẩm thơ Quê hương của Giang Nam, Dáng dứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca Chim Chơ-rao của Thu Bồn, Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh, w. Xem thêm Hiện nay các nhà văn, nhà thơ đang có gắng đưa văn học Việt Nam sang một giai đoạn mới, góp phần xây dựng một nước Việt Nam đi lên trong hoà bình và ổn more Các Món Chế Biến Từ Cá Trê Lai Vừa Lạ Miệng Lại Thơm Ngon Hết Ý Thông báo Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem. Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu * Lưu tên của tôi, email, và trang web trong trình duyệt này cho lần bình luận kế tiếp của tôi. Chữ Nôm là loại văn tự được người Việt tạo ra dựa trên chữ Hán, được sử dụng nhiều từ thế kỉ X đến XX. Đã có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam được viết bằng chữ Nôm. Chữ Nôm là gì? Cả hai từ “chữ” và “Nôm” trong “chữ Nôm” đều là các từ Hán Việt cổ. Trong đó từ “chữ” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “tự” 字. Còn từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán của chữ “nam” 南. Như vậy, ý tên gọi chữ Nôm là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam, tức là người Việt. Vậy thì chữ Nôm là loại chữ gì? Là hệ thống văn tự ngữ tố dùng để viết tiếng Việt, được tạo ra dựa trên cơ sở là chữ Hán. Nó bao gồm các từ Hán Việt và một hệ thống các từ vựng khác được tạo ra dựa vào việc vận dụng phương thức tạo chữ hình thanh, giá tả, hội ý của chữ Hán để tạo ra các chữ mới bổ sung cho việc viết. Cũng như việc biểu đạt các từ thuần Việt không có trong bộ chữ Hán ban đầu. – Ví dụ 1 Chữ bán 半 trong chữ Hán có âm Hán Việt là bán nghĩa là một nửa, nhưng chữ Nôm mượn âm và hiểu theo nghĩa là bán trong mua bán. – Ví dụ 2 Có những chữ Nôm lại mượn nghĩa của hai chữ Hán để tạo ra âm Nôm như từ mệt được ghép bởi chữ 亡 vong nghĩa là mất + chữ 力 lực nghĩa là sức, tức là mất sức nên mệt. – Ví dụ 3 Chữ trời được ghép bởi chữ thiên 天 và thượng 上 thượn, thiên ở trên là trời. Chữ Hán Chữ Hán hay còn gọi là Hán tự là chữ Trung Quốc. Trong chữ Hán bao gồm có 2 loại Chữ Hán cổ phồn thể và chữ Hán hiện đại chữ giản thể. Đây là một dạng chữ viết biểu ý của Trung Quốc sau đó đã du nhập vào các nước lân cận như Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Từ đó tạo nên vùng văn hóa chữ Hán, tại các nước này chữ Hán được vay mượn để tạo nên ngôn ngữ mới cho mỗi nước. Trong các văn bản ở Việt Nam, chữ người Việt dùng được gọi là chữ Nho, tức là chữ Hán cổ. Tuy nhiên, người Việt không phát âm chữ Hán như người Trung Quốc bằng cách dùng Pinyin để đọc. Mà người Việt đọc bằng âm Hán Việt, đây là một sáng tạo mới trong việc củng cố phát âm chữ Hán của người Việt. Chữ Quốc ngữ Chữ Quốc ngữ là hệ chữ viết chính thức trên thực tế de facto hiện nay của tiếng Việt. Bộ chữ Quốc ngữ sử dụng các ký tự Latinh, dựa trên các bảng chữ cái của nhóm ngôn ngữ Rôman đặc biệt là bảng chữ cái Bồ Đào Nha, với các dấu phụ chủ yếu từ bảng chữ cái Hy Lạp. Tên gọi “chữ quốc ngữ” được dùng để chỉ chữ quốc ngữ Latinh lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1867 trên Gia Định báo. Tiền thân của tên gọi này là chữ Tây quốc ngữ. Về sau từ Tây bị lược bỏ đi để chỉ còn là chữ quốc ngữ. “Quốc ngữ” nghĩa mặt chữ là ngôn ngữ quốc gia, ở Việt Nam nếu không có từ bổ nghĩa kèm theo cho thấy từ quốc ngữ được dùng để một ngôn ngữ nào khác thì quốc ngữ mặc định là chỉ tiếng Việt. Văn học chữ Nôm và các tác phẩm nổi tiếng Việt Nam Văn học chữ Nôm bao gồm các sáng tác bằng chữ Nôm, ra đời muộn hơn văn học chữ Hán khoảng cuối thế kỉ XIII, tồn tại, phát triển đến hết thời kì văn học trung đại. Văn học chữ Nôm chủ yếu là thơ, rất ít văn xuôi. Trong văn học chữ Nôm, chỉ một số thể loại tiếp thu từ Trung Quốc như phú, văn tế, thơ Đường luật. Còn phần lớn là thể loại văn học dân tộc như ngâm khúc viết theo thể song thất lục bát, truyện thơ lục bát, hát nói viết theo thể thơ tự do kết hợp với âm nhạc, hoặc thể loại văn học Trung Quốc đã được Việt hóa như thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Văn học chữ Nôm có những thành tựu lớn ở tất cả các thể loại kể trên. Truyện Kiều bằng chữ Nôm Truyện Kiều của Nguyễn Du Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm – Đặng Trần Côn Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều Tống Trân Cúc Hoa Phạm Công Cúc Hoa Sau phút chia li – Đoàn Thị Điểm Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan Bạn đến chơi nhà – Nguyễn Khuyến Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu Đập đá ở Côn Lôn – Phan Châu Trinh Muốn làm thằng Cuội – Tản Đà Hai chữ nước nhà – Trần Tuấn Khải Trên đây là một số thông tin khái quát về chữ Nôm. Bác Nhã hy vọng đã cung cấp cho bạn những điều còn băn khoăn. Đừng quên cập nhật website để đọc các bài viết hay nhé! Xem thêm Tuyển tập 1 số file luyện viết chữ Hán miễn phí Những kỹ năng giao tiếp tiếng Trung khi gặp khách hàng Chữ Nôm 字喃, còn gọi là Quốc âm chữ Hán 國音, là một hệ chữ ngữ tố từng được dùng để viết tiếng Việt, gồm các từ Hán-Việt và các từ vựng khác. Nó bao gồm bộ chữ Hán tiêu chuẩn và các chữ khác được tạo ra dựa theo quy tắc. Chữ Nôm là gì? Định nghĩa Cả hai từ “Chữ” và “Nôm” trong chữ Nôm đều là từ Hán Việt cổ. Từ chữ bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của chữ “tự” 字 có nghĩa là chữ. Từ “Nôm” bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán trung cổ của chữ “nam” 南 có nghĩa là phía nam. Ý của tên gọi chữ Nôm là đây là thứ chữ dùng để ghi chép tiếng nói của người phương Nam tức người Việt, xưa kia người Việt tự xem mình là người phương Nam, còn người Trung Quốc là người phương Bắc. Tên gọi chữ Nôm khi viết bằng chữ Nôm có thể viết bằng rất nhiều cách khác nhau 字喃,(⿰字宁)喃,(⿰字守)喃,喃,茡喃,芓喃,(⿰字文)喃,喃,佇喃,宁喃 字諵,(⿰字宁)諵(⿰字守)諵,諵,茡諵,芓諵,(⿰字文)諵,諵,佇諵,宁諵 Một trang từ cuốn Nhật dụng thường đàm chữ Nôm 1851. Vậy còn Chữ Nho là gì? Danh từ chữ Nho được dùng để chỉ chữ Hán do người Việt dùng trong các văn bản ở Việt Nam. Các quan điểm về sự hình thành của chữ Hán Nôm Cách cấu tạo chữ Nôm có thể đã manh nha ló dạng từ những năm đầu khi người Hán chinh phục đất Giao Chỉ Miền Bắc Việt Nam và đặt nền đô hộ trên các bộ lạc người Việt vào đầu Công Nguyên. Vì ngôn ngữ khác biệt, những “chữ Nôm” đầu tiên xuất hiện vì nhu cầu ghi địa danh, tên người hoặc những khái niệm không có trong Hán văn. Song chứng cứ còn lưu lại hết sức ít ỏi, khó kiểm chứng được một cách chính xác. Phạm Huy Hổ trong “Việt Nam ta biết chữ Hán từ đời nào?” thì cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn Đa cư sĩ Nguyễn Văn San lại cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp cuối đời Đông Hán thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ “bố cái” trong danh xưng “Bố Cái đại vương” do nhân dân Việt Nam suy tôn Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ thứ 8. Ý kiến khác lại dựa vào chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt” 大瞿越 để cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng. Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc điểm cấu trúc nội tại của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán và tiếng Hán Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt âm của người Việt đọc chữ Hán ngày nay bắt nguồn từ thời nhà Đường-nhà Tống thế kỷ 8-9. Và nếu âm Hán Việt có từ thời Đường, Tống thì chữ Nôm không thể ra đời trước khi cố định cách đọc Hán Việt nếu xét chữ Nôm với tư cách hệ thống văn tự và chỉ có thể ra đời sau khoảng thế kỷ thứ 10 khi người Việt thoát khỏi nghìn năm Bắc thuộc với chiến thắng của Ngô Quyền vào năm 938. Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý thì mới có một số chữ Nôm như trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ tạc năm 1173 niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ 11 hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông. Trước tác thì phải sang thời nhà Trần mới có dấu tích rõ ràng. Hàn Thuyên là người có công lớn phát triển thơ Nôm thời kỳ này với việc mở đầu thể Hàn luật. Sự hình thành và Phát triển của chữ Hán Nôm Ban đầu khi mới xuất hiện, chữ Nôm thuần túy mượn dạng chữ Hán y nguyên để ghi âm tiếng Việt cổ mượn âm để chép tiếng Quốc âm. Phép đó gọi là chữ “giả tá”. Dần dần phép ghép hai chữ Hán lại với nhau, một phần gợi âm, một phần gợi ý được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Phép này gọi là “hài thanh” để cấu tạo chữ mới. Kể từ thời Lê về sau số lượng sáng tác bằng chữ Nôm tăng dần trong suốt 500 năm từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19. Dồi dào nhất là các áng thi văn có tính cách cảm hứng, tiêu khiển, và nặng phần tình cảm. Những tác phẩm Nôm này rất đa dạng từ Hàn luật thơ Nôm tiếng Việt theo luật Đường, đến văn tế, truyện thơ lục bát, song thất lục bát, phú, hát nói, tuồng, chèo. Thi ca chữ Nôm đã diễn tả đầy đủ mọi tình cảm của dân tộc Việt, khi thì hào hùng, khi bi ai; khi thì trang nghiêm, khi bỡn cợt. Chữ Hán Nôm Trước thế kỷ 15 Một số di tích còn lưu lại dấu vết chữ Nôm trước thế kỷ 15 nhưng số lượng không nhiều ngoài vài văn bia. Tuy nhiên có thuyết cho rằng một tác phẩm quan trọng là tập Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, dịch Nôm là Phật nói cả trả ơn áng ná cực nặng đã ra đời vào thời nhà Lý khoảng thế kỷ 12. Đây cũng là đặc điểm vì tập này là văn xuôi, một thể văn ít khi dùng chữ Nôm. Nhà Trần cũng để lại một số tác phẩm chữ Nôm như mấy bài phú của vua Trần Nhân Tông “Cư trần lạc đạo phú” 居塵樂道賦 và “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” 得趣林泉成道歌.[9][10] Chữ Hán Nôm Thế kỷ 15 –17 Thời kỳ này phần lớn thi văn lưu truyền biết tới nay là thơ Hàn luật bát cú hoặc tứ tuyệt. Một số là trước tác cảm hứng riêng như Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi Hồng Đức quốc âm thi tập Lê Thánh Tông Bạch Vân am thi tập Nguyễn Bỉnh Khiêm Ngự đề hoà danh bách vịnh Chúa Trịnh Căn Tứ thời khúc vịnh Hoàng Sĩ Khải Ngọa long cương Đào Duy Từ nhưng cũng không thiếu những tác phẩm theo dạng sử ký như Thiên Nam Minh giám, Thiên Nam ngữ lục. Thơ lục bát cũng xuất hiện với tác phẩm “Cảm tác” của Nguyễn Hy Quang, được sáng tác năm 1674. Thế kỷ 17 cũng chứng kiến sự xuất hiện nhưng đã sớm nở rộ của văn học Nôm Công giáo, với những tác giả tên tuổi như nhà truyền giáo Girolamo Maiorica chủ trì biên soạn hơn 45 tác phẩm nhiều thể loại, thầy giảng Gioan Thanh Minh viết tiểu sử các danh nhân và thánh nhân, thầy giảng Lữ-y Đoan viết Sấm truyền ca, truyện thơ lục bát phỏng tác từ Ngũ Thư. Chữ Hán Nôm Thế kỷ 18 – 19 Thơ Hàn luật của những thế kỷ kế tiếp càng uyển chuyển, lối dùng chữ càng tài tình, hóm hỉnh như thơ của Hồ Xuân Hương hay Bà Huyện Thanh Quan. Ngược lại thể thơ dài như Ai tư vãn của Ngọc Hân Công chúa cùng thể song thất lục bát trong Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm lưu danh những nữ sĩ biệt tài thời trước. Riêng Chinh phụ ngâm được xem là một tuyệt tác, có phần trội hơn nguyên bản chữ Nho. Thể song thất lục bát cũng lưu lại tác phẩm Cung oán ngâm khúc, lời văn cầu kỳ, hoa mỹ nhưng thể thơ phổ biến nhất là truyện thơ lục bát, trong đó phải kể Truyện Kiều Nguyễn Du và Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu. Văn từ truyện thơ bình dị hơn nhưng lối hành văn và ý tứ không kém sâu sắc và khéo léo. Những tác phẩm truyện Nôm khuyết danh khác như Thạch Sanh Trê Cóc Nhị độ mai Phan Trần Tấm Cám Lưu Bình Dương Lễ Ngư tiều vấn đáp y thuật Nữ tú tài Tô Công phụng sứ tất cả được phổ biến rộng rãi khiến không mấy người Việt lại không biết vài câu, nhất là Truyện Kiều. Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong 24 năm, từ 1788 đến 1802. Thời kỳ cuối của chữ Nôm xuất hiện nhiều tác phẩm thi ca theo thể hát nói như của Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tú Xương Những thể cũ song thất lục bát và lục bát các truyện Nôm vẫn góp mặt song thêm vào đó là những vở tuồng hoặc chèo dân gian cũng được soạn bằng chữ Nôm như Kim Thạch kỳ duyên, Chàng Lía Văn Doan diễn ca, Quan Âm Thị Kính. Đối ngược lại tài liệu văn học thì triết học, sử học, luật pháp, y khoa và ngữ học tuy có được ghi lại bằng chữ Nôm nhưng tương đối ít. Văn vần thì có Đại Nam quốc sử diễn ca thời Nguyễn. Đặc biệt là cuốn từ điển song ngữ Hán Nôm Đại Nam Quốc ngữ do Văn Đa Nguyễn Văn San soạn năm Tự Đức thứ 30 1877.Song sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì nhất thể đều bằng chữ Hán. Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ thế kỷ 15 và nhà Tây Sơn thế kỷ 18. Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy tờ, thư từ, khế ước, địa bạ chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng như tên đất, tên làng, tên người, nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt. Sự Suy giảm của chữ Hán Nôm Dưới chính quyền thuộc địa và bảo hộ của Pháp, vào cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ và đầu thế kỷ 20 tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, vị thế của chữ Hán và chữ Nôm bắt đầu giảm sút. Kỳ thi Hương cuối cùng tại Nam Kỳ được tổ chức vào năm 1864, tại Bắc Kỳ là năm 1915, tại Trung Kỳ là năm 1918 và kỳ thi Hội sau cùng được tổ chức vào năm 1919. Trong chừng mực nào đó, chữ Hán vẫn tiếp tục được dạy trong thời Pháp thuộc. Học chính Tổng quy Règlement général de l’Instruction publique do Toàn quyền Albert Sarraut ban hành năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp lớp nhì và lớp nhất ít nhất 12 giờ. Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn gồm Hán tự và Quốc ngữ dạy 3 giờ trong khi Pháp văn và lịch sử Pháp dạy 12 giờ. Bên cạnh bộ Quốc-văn giáo-khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ Hán-văn tân giáo-khoa thư xuất bản lần đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi biên soạn, đều được dùng rộng rãi cho tới trước năm 1949. Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dừng việc dạy chữ Hán trong nhà trường kể từ năm 1950. Còn tại miền Nam, Giáo dục Việt Nam Cộng hòa quy định dạy chữ Hán cho học sinh trung học đệ nhất cấp….? Sau tái thống nhất, chương trình giáo dục phổ thông của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không giảng dạy chữ Hán. Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ Chữ Nôm và chữ Quốc ngữ là hai hệ chữ dùng để viết tiếng Việt, chúng có vai trò khác nhau trong dòng lịch sử và văn hóa. Chữ Quốc ngữ được các nhà truyền giáo Dòng Tên tại Việt Nam sáng chế dựa trên ký tự Latinh vào nửa đầu thế kỷ 17 và suốt một thời gian dài tới cuối thế kỷ 19 chỉ được lưu hành trong giới Công giáo. Tuy nhiên, trái với nhiều người lầm tưởng, trong thời kỳ này, lượng văn thư Kitô giáo chữ Nôm vượt xa chữ Quốc ngữ, và sách chữ Nôm vẫn được người Công giáo sử dụng cho đến giữa thế kỷ 20. Thời Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa muốn tăng cường ảnh hưởng của tiếng Pháp và hạn chế ảnh hưởng của Hán học cùng với chữ Hán. Sự giảm sút của chữ Hán cũng dẫn đến sự suy giảm của chữ Nôm. Về văn tự thay thế để viết tiếng Việt, họ bất đắc dĩ phải chấp nhận sự hiện hữu của chữ Quốc ngữ do các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha chế tạo. Bất chấp việc chính quyền Pháp cổ súy chữ Quốc ngữ cho mục đích của họ, các sĩ phu vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ biến tân học và lan truyền tư tưởng yêu nước. Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ. Ngày nay, tiếng Việt hầu như được viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, trong khi đó chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, có thể đọc viết được chữ Nôm. Một số người cho rằng chữ Quốc ngữ đã làm lu mờ vị thế của chữ Nôm nhưng một số khác thì nhấn mạnh rằng về mặt kỹ thuật, hai hệ chữ này không loại trừ nhau, nghĩa là, người ta vẫn có thể biết chữ Quốc ngữ đồng thời học chữ Nôm vì điều này không ai ngăn cấm cả. Những cách tạo chữ Nôm Mượn cả âm và nghĩa của chữ Hán Mượn cả âm đọc âm Hán Việt và nghĩa của chữ Hán để ghi lại các từ từ Hán Việt. Âm Hán Việt có ba loại là Âm Hán Việt tiêu chuẩn bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời Đường. Ví dụ “ông” 翁, “bà” 婆, “thuận lợi” 順利, “công thành danh toại” 功成名遂. Âm Hán Việt cổ bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán trước thời Đường. Ví dụ “mùa” 務 âm Hán Việt tiêu chuẩn là”vụ”, “bay” 飛 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phi”, “buồng” 房 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phòng”. Âm Hán Việt Việt hoá là các âm gốc Hán bị biến đổi cách đọc do ảnh hưởng của quy luật ngữ âm tiếng Việt. Ví dụ “thêm” 添 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “thiêm”, “nhà” 家 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “gia”, “khăn” 巾 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “cân”, “ghế” 几 âm Hán Việt tiêu chuẩn là “kỉ”. Ba loại âm Hán Việt kể trên đều được dùng trong chữ Nôm. Mượn âm chữ Hán, không mượn nghĩa Mượn chữ Hán đồng âm hoặc cận âm để ghi âm tiếng Việt. Âm mượn có thể là âm Hán Việt tiêu chuẩn, âm Hán Việt cổ hoặc âm Hán Việt Việt hoá. Khi đọc có thể đọc giống với âm mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ Đọc giống như âm Hán Việt tiêu chuẩn chữ “một” 沒 có nghĩa là “chìm” được mượn dùng để ghi từ “một” trong “một mình”, chữ “tốt” 卒 có nghĩa là “binh lính” được mượn dùng để ghi từ “tốt” trong “tốt xấu”, chữ “xương” 昌 có nghĩa là “hưng thịnh” được mượn dùng để ghi từ “xương” trong “xương thịt”, chữ “qua” 戈 là tên gọi của một loại binh khí được mượn dùng để ghi từ “qua” trong “hôm qua”. Đọc chệch âm Hán Việt tiêu chuẩn “gió” 這 mượn âm “giá”, “cửa” 舉 mượn âm “cử”, “đêm” 店 mượn âm “điếm”, “chạy” 豸 mượn âm “trãi”. Đọc giống như âm Hán Việt cổ chữ “keo” 膠 “keo” trong “keo dán”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “giao” được dùng để ghi lại từ “keo” trong “keo kiệt”, chữ “búa” 斧 “búa” trong “cái búa”, âm Hán Việt tiêu chuẩn là “phủ” được dùng để ghi lại từ “búa” trong “chợ búa” “búa” trong “chợ búa” là âm Hán Việt cổ của chữ “phố” 鋪. Mượn nghĩa chữ Hán, không mượn âm Mượn chữ Hán đồng nghĩa hoặc cận nghĩa để ghi lại âm tiếng Việt. Ví dụ chữ “dịch” 腋 có nghĩa nghĩa là “nách” được dùng để ghi lại từ “nách” trong “hôi nách”, chữ “năng” 能 có nghĩa là “có tài, có năng lực” được dùng để ghi lại từ “hay” trong “văn hay chữ tốt”. Tạo chữ ghép Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép hoặc nghĩa phù bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép hoặc vừa là thành phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi. Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép. Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ “khẩu” 口 đặt ở bên trái chữ ghép, dấu “cá” 亇 bắt nguồn từ chữ “cá” 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép, dấu nháy “?” đặt ở bên phải chữ ghép, bộ “tư” 厶 đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép, dấu “冫” đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam. → Xem thêm bài 7 Cách học chữ Hán dễ Nhớ nhất → Một số ví dụ về chữ ghép “chân” 蹎 “chân” trong “chân tay” chữ này được cấu thành từ chữ “túc” 足 và chữ “chân” 真. “Túc” 足 có nghĩa là “chân” được dùng làm “nghĩa phù” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Trong chữ ghép chữ “túc” 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là “bàng chữ túc” ⻊. Chữ “chân” 真 “chân” trong “chân thành” đồng âm với “chân” trong “chân tay” được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép. “gạch” ? “gạch” trong “gạch ngói” chữ này được cấu thành từ chữ “thạch” 石 và chữ “ngạch” 額. “Thạch” 石 có nghĩa là “đá” được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. “Ngạch” 額 dùng làm thanh phù. “khói” chữ này được cấu thành từ chữ “hỏa” 火 và chữ “khối” 塊 bị tỉnh lược một phần tỉnh lược bộ “thổ” 土 ở bên trái chữ “khối” 塊. “Hỏa” 火 có nghĩa là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép lửa cháy tạo ra khói, “khối” 塊 gợi âm đọc của chữ ghép. “ra” chữ này được cấu thành từ chữ “la” 羅 giản hóa và chữ “xuất” 出. “Xuất” 出 có nghĩa là “ra” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “trời” chữ này được cấu thành từ chữ “thiên” 天 có nghĩa là “trời” và chữ “thượng” 上 có nghĩa là “trên”, ý là “trời” thì nằm ở trên cao. “lử” “lử” trong “mệt lử” gồm chữ “vô” 無 có nghĩa là “không có” và chữ “lực” 力 có nghĩa là “sức, sức lực”, ý là “lử” là không còn sức lực gì nữa. Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ – “blăng” “Blăng” hiện nay đã biến đổi thành “trăng, giăng”. Chữ “blăng” ? được cấu thành từ chữ “ba” 巴, chữ “lăng” 夌 và chữ “nguyệt” 月. “Ba” 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất “b” của phụ âm kép “bl”, “lăng” 夌 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần của từ “blăng”, “nguyệt” 月 có nghĩa là “mặt trăng” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này. – “mlời” “Mlời” hiện nay đã biến đổi thành “lời, nhời” “lời” trong “lời nói”. Chữ “mlời” ? được cấu thành từ chữ “ma” 麻 bị tỉnh lược thành “亠” và chữ “lệ” 例. “Ma” 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất – “m” của phụ âm kép “ml”, “lệ” 例 biểu thị phụ âm thứ hai “l” và phần vần cửa từ “mlời”. – “tlòn” “Tlòn” hiện nay đã biến đổi thành “tròn”. Chữ này được cấu thành từ chữ “viên” 圓 bị tỉnh lược bộ “vi” 囗 ở phía ngoài thành “員” và chữ “lôn” 侖. “Viên” 圓 có nghĩa là “tròn” được dùng làm nghĩa phù. “Lôn” 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “tl” và phần vần của từ “tlòn”. – “krông” 滝 “Krông” hiện nay đã biến đổi thành “sông”. Chữ này được cấu thành từ bộ “thủy” 水 và chữ “long” 竜. “Thủy” có nghĩa là “sông” biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. “Long” 竜 biểu thị phụ âm thứ hai “r” của phụ âm kép “kr” và phần vần của từ “krông”. – “sláu” “sláu” hiện nay đã biến đổi thành “sáu”. Chữ này được cấu thành từ chữ “lão” và chữ “lục”. “Lục” 六 là nghĩa phù, có nghĩa là “sáu”. “Lão” 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai “l” của phụ âm kép “sl” và phần vần của từ “sláu”. Lược bớt nét của chữ Hán để biểu thị phải đọc chệch đi Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ – chữ “ấy” lược nét chấm “丶” trên đầu chữ “ý” 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là “y” hay “ý” chữ 衣 có hai âm đọc là “y” và “ý” mà cần đọc chệch đi. – “khệnh khạng” chữ “khệnh ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khạng” ? là chữ “cộng” 共 bị lược bớt nét mác “㇔”. – “khề khà” chữ “khề” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét phẩy “㇒”, chữ “khà” ? là chữ “kỳ” bị lược bớt nét mác “㇔”. Mượn âm của chữ Nôm có sẵn Dùng chữ Nôm có sẵn để ghi lại từ tiếng Việt đồng âm hoặc cận âm nhưng khác nghĩa hoặc đồng nghĩa nhưng khác âm với chữ được mượn. Khi đọc có thể đọc giống với âm đọc của chữ được mượn hoặc đọc chệch đi. Ví dụ Đọc giống với âm đọc của chữ được mượn chữ “chín” ? “chín” trong “chín người mười ý” được dùng để ghi từ “chín” trong “nấu chín”. Đọc chệch âm chữ “đá” ? “đá” trong “hòn đá” được dùng để ghi từ “đứa” trong “đứa bé”. Nhìn chung chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán do phần lớn là những chữ buộc phải ghép 2 chữ Hán lại nên khó học, khó nhớ hơn cả chữ Hán vốn cũng đã khó nhớ. Để đọc viết được chữ Nôm đòi hỏi phải có vốn hiểu biết chữ Hán nhất định. Hệ chữ Nôm cũng không có sự thống nhất có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại, một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau. Tình trạng này còn do “tam sao thất bản”, phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần vì khâu in mộc bản có chất lượng không cao chữ bị nhòe, mất nét. Do đó có người nói “chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán”, “nôm na là cha mách qué”. Về mặt ngữ học thì do âm trong tiếng Việt nhiều hơn số âm trong tiếng Hán tiếng Việt có 4500 đến 4800 âm; tiếng Hán Quan thoại có khoảng 1280 âm nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm. Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm rất khó đọc. Chữ Nôm của các dân tộc khác Ở Việt Nam, không chỉ có dân tộc Kinh chế tạo ra chữ Nôm, một vài dân tộc thiểu số khác như Tày, Dao, Ngạn,… cũng tạo ra chữ Nôm dựa trên chữ Hán để lưu lại ngôn ngữ của họ.[19] Chữ Nôm Tày Chữ Nôm Dao Chữ Nôm Ngạn Người Ngạn, một nhóm cư dân ở tỉnh Cao Bằng tự nhận thuộc dân tộc Tày nhưng về mặt ngôn ngữ thì gần với người Giáy, từng sử dụng chữ Nôm Ngạn trộn với chữ Hán trong các bài mo khấn cúng. “Chữ nôm” của các nước khác Do 喃 nôm = 口 khẩu + 南 nam nên chữ “喃 nôm” trong tên gọi “chữ Nôm” thường được hiểu với ý nghĩa là “ngôn ngữ của người Nam”. Tuy nhiên, nếu mở rộng khái niệm “chữ nôm” ra cho tất cả các hệ chữ được sáng tạo dựa trên chữ Hán thì có người còn gọi những chữ được các dân tộc phương bắc như Nhật Bản, Triều Tiên là “chữ nôm Nhật”, “chữ nôm Triều”, hay gọi những hệ thống chữ của các dân tộc thuộc Trung Quốc như Tráng, Đồng, là “chữ nôm Choang”, “chữ nôm Đồng”, Kokuji 国字 Quốc tự trong hệ thống Kanji của người Nhật cũng được tạo thành từ chữ Hán để ghi lại những từ và khái niệm riêng trong tiếng Nhật. Ví dụ 畑 hatake = 火 hoả + 田 điền, nghĩa là cánh đồng khô, để phân biệt với 田 là ruộng trồng lúa nước; 鮭 sake = 魚 ngư + 圭 khuê, nghĩa là cá hồi Nhật Bản; 瓩 kiloguramu = 瓦 ngoã + 千 thiên, nghĩa là kílô-gam. Trong hệ thống Kanji hiện đại, cũng có nhiều chữ không có trong các tự điển Trung Quốc nhưng không phải là Kokuji vì đó chỉ là cách đơn giản hoá những chữ Hán đã có sẵn theo kiểu của người Nhật. Ví dụ 円 là giản thể của 圓 viên; 売 là giản thể của 賣 mại. Tương tự như Kokuji của người Nhật, người Triều Tiên cũng dùng chữ Hán để tạo thành một số chữ biểu ý riêng trong hệ thống Hanja của họ. Ví dụ 畓 dap = 水 thuỷ + 田 điền, nghĩa là ruộng nước, để phân biệt với 田 là đồng khô; 巭 bu = 功 công + 夫 phu, nghĩa là người lao động. Chữ Choang vuông Sawndip của người Tráng ở cực nam Trung Quốc được phát triển dựa trên chữ Hán và thường được so sánh với chữ Nôm của dân tộc Kinh ở Việt Nam do có nhiều điểm tương đồng giữa hai hệ thống chữ viết này. Tuy nhiên, ngoài những cách tạo chữ tương tự với cách tạo chữ Nôm là giả tá, hình-thanh và hội ý, còn có những chữ vuông Choang được tạo ra bởi những cách sơ khai hơn là tượng hình và chỉ sự Tuy nhiên, cũng nên phân biệt những “chữ nôm” này với những bộ chữ biểu âm như Kana và Hangul trong tiếng Nhật và tiếng Hàn hiện đại. Các phần mềm viết chữ Hán Nôm Có nhiều phần mềm máy tính tạo ra ký tự chữ Nôm bằng cách gõ chữ Quốc ngữ. HanNomIME là phần mềm chạy trên Windows hỗ trợ cả chữ Hán và chữ nôm. Vietnamese Keyboard Set hỗ trợ gõ chữ Nôm và chữ Hán trên Mac OS X. WinVNKey là bộ gõ đa ngôn ngữ trên Windows hỗ trợ gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng âm Quốc ngữ. Weasel Hannom là bộ gõ của Ủy ban phục sinh Hán Nôm được xây dựng trên cơ sở bộ gõ Weasel. Phông chữ Nôm nằm trong cơ sở dữ liệu Unihan. VietUnicode là phông Unicode chứa các ký tự chữ Nôm. Nó là một dự án trên SourceForge. Phông TrueType có thể tải về từ. Một số từ điển chữ Nôm trên mạng Internet có Từ điển ở Viện Việt học tiếng Việt Nom character index Tiếng Anh. Trích nguồn → Xem chi tiết về Khóa học viết chữ Hán Nôm và Thư pháp tại đây CHỈ CẰN GHI ĐÁP ÁN KO CẰN GHI ĐỀ Câu 11 Thời Lý, nội dung học tập chủ yếu là A. Văn học chữ Hán. B. Kinh Phật. C. Văn học chữ Hán và kinh Phật. D. Tất cả đều 12 Nơi nào được coi là trường học đầu tiên của quốc gia Đại Việt. A. Quốc Tử Giám. B. Văn Miếu. C. Chùa Trấn Quốc. D. Chùa Một 13 Dưới thời Lý, đạo Phật lại phát triển thành quốc giáo không vì lí do nào? A. Do đạo Phật phù hợp với đời sống văn hóa tinh thần của người ViệtB. Nhà Lý được thành lập dựa trên sự giúp đỡ của các nhà sưC. Tư tưởng thoát Trung trong buổi đầu mới giành độc lập của người ViệtD. Nho giáo không có tác dụng trong công cuộc xây dựng đất nướcCâu 14 An Nam tứ đại khí bao gồm những công trình kiến trúc- điêu khắc nào? A. Chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn, chuông chùa Trùng Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, vạc Phổ Minh, tượng phật chùa Quỳnh LâmC. Chuông Quy Điền, vạc Phố Minh, Cữu Trùng đài, tháp Chương Chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tháp Bình Sơn, tượng phật chùa Quỳnh LâmCâu 15 Vị vua cuối cùng của triều đại nhà Lý là ai ?A. Lý Huệ Tông B. Lý Cao Tông C. Lý Anh Tông D. Lý Chiêu HoàngCâu 16 Âm mưu của Mông Cổ trong chiến tranh xâm lược Đại Việt lần 1 là gì? A. Xâm lược Đại Việt để giải quyết những khó khăn trong nước. B. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công Nam Tống. C. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công Cham-pa. D. Xâm lược Đại Việt để làm bàn đạp tấn công các nước phía nam Đại 17 Trước nguy cơ bị quân Mông xâm lược, triều đình nhà Trần đã có thái độ như thế nào? A. Kiên quyết chống giặc và tích cực chuẩn bị kháng chiến. B. Chấp nhận đầu hàng khi sứ giả quân Mông Cổ đến. C. Cho sứ giả của mình sang giảng hòa. D. Đưa quân đón đánh giặc ngay tại cửa 18 Câu nói “Nếu bệ hạ muốn hàng giặc thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng” là của ai? A. Trần Quốc Toản. B. Trần Thủ Độ. C. Trần Quang Khải. D. Trần Quốc 19 Chủ trương đánh giặc nào được nhà Trần thực hiện trong cả ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên. A. Tiêu diệt đoàn thuyền lương của giặc. B. Chặn đánh ngay từ khi quân giặc vừa tiến vào nước ta. C. Thực hiện “vườn không nhà trống” D. Kiên quyết giữ Thăng Long, đào chiến lũy để chống 20 Trận đánh lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất là A. Trận Quy Hóa Yên Bái, Lào Cai. B. Trận Thiên Mạc Duy Tiên, Hà Nam. C. Trận Đông Bộ Đầu bến sông Hồng, ở phố Hàng Than – Hà Nội. D. Trận Bạch Đằng.

văn học chữ hán và chữ nôm