Bát Tràng là ngôi thôn cổ danh tiếng với nghề làm cho gốm sứ ở Hà Nội. 1. Reviews về làng nghề gốm bát Tràng làm việc Hà Nội. Làng gốm chén Tràng nằm tại tả ngạn sông Hồng, nay trực thuộc xã chén bát Tràng, thị trấn Gia Lâm, Hà Nội, cách trung tâm tp hơn 10km về phía Dogombattrang.vn là một trong những đơn vị dẫn dầu trong việc sản xuất và cung cấp đồ gốm sứ Bát Tràng. Vì những sản xuất trực tiếp nên xưởng do đó bạn mua gốm sứ phong thủy ở Dogombattrang.vn sẽ có lợi thế về hàng hóa và giá thành sản phẩm. Chào mừng ngày Di sản Văn hoá Việt Nam (23/11), Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Hội Di sản Văn hoá Việt Nam, Sưu tập An Biên tổ chức trưng bày chuyên đề "Gốm Việt Nam: Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ Sưu tập An Biên". Trưng bày khai mạc ngày 19/11 tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Thứ trưởng Bộ - Gốm Phùng Nguyên và Đồng Đậu phát triển mở đầu thời kỳ văn hoá trên đồng bằng sông Hồng Việt cổ; có niên đại C14 ở Đồng Chỗ: 3800 60 năm và Đồng Đậu lớp cuối 3330 100 năm (các nền văn hoá Việt Nam - Hoàng Xuân Chính, NXB Lao động 2005/ trang 196). Thời kỳ đồ đồng: ở Việt Nam (cách đây 4 nghìn năm), hầu hết các sản phẩm gốm được hình thành bằng bàn xoay một cách khá thành thạo, do vậy tạo nên sự phong phú về chủng loại và kiểu dáng sản phẩm: ngoài các sản phẩm đun nấu còn thấy những sản phẩm gốm để Gốm Sứ Việt Nam. Gốm sứ Việt Nam theo sử sách ghi nhận đã hình thành từ cách đây khoảng 4000 ngàn năm, từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên. Qua thời gian nhiều làng nghề gốm đã hình thành và phát triển, những sản phẩm mà nghệ nhân mỗi làng nghề chế tạo với nhiều họa uloj7. Gốm là một nghề đã có từ lâu đời trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử của dân tộc, vì thế, gốm cũng đã trở thành một phần của văn hóa Việt Nam để khắc họa lên nét đẹp của cuộc sống mà chúng ta rất trân trọng. Nguồn gốc của nghề gốm Việt Nam Từ ngàn đời trước gốm đã trở thành một trong những phát minh quan trọng của tổ tiên ta còn được lưu truyền những giá trị tốt đẹp đến tận ngày nay. Đồ gốm đã gắn bó mật thiết với cuộc sống của người dân và dưới sự sáng tạo cũng như đôi bàn tay khéo léo của người thợ gốm thì những sản phẩm gốm cổ Việt Nam đã được coi như một loại hình nghệ thuật mang tính dân gian sâu sắc phản ánh đời sống của dân tộc ta. Cách đây từ sáu, bảy ngàn năm trước nghề gốm cổ truyền Việt Nam đã xuất hiện trong những di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Hạ Long... Sau đó, chúng ta tiếp tục tìm thấy đồ gốm trong di chỉ thuộc hậu kỳ đồ đá mới Phùng Nguyên, giai đoạn Gò Mun, giai đoạn Đồng Đậu,... Qua từng thời kì lịch sử đồ gốm cổ truyền nước ta đã có những bước phát triển vô cùng đa dạng và cải thiện về cả chất lượng và mặt thẩm mỹ. Theo các truyền thuyết sự đồ gốm, đồ sứ xuất hiện được ví như một điều bí hiểm, linh thiêng của đất trời chưa có lời giải khi để làm ra đồ gốm phải sử dụng loại chất bột nằm sâu trong lòng đất, ở những nơi linh thiêng có ma quỷ canh giữ thì mới thiêng. Trước mỗi lần khai thác cần phải chọn ngày lành tháng tốt như khi lấy lên mặt đất phải nhờ ánh sáng của mặt trời rọi xuống thì chất bột đó mới biến thành gốm, sứ... Từ ngàn đời trước gốm đã trở thành một trong những phát minh quan trọng của tổ tiên ta còn được lưu truyền những giá trị tốt đẹp đến tận ngày nay. Ảnh minh hoạ Đây chỉ là truyền thuyết nhưng cũng đã cho thấy tầm quan trọng của gốm sứ được nhân dân ta coi trọng. Còn trên thực tế gốm, sứ ra đời phải có sự tác động của trí óc và đôi bàn tay khéo léo của người thợ thủ công. Trong cuốn Lịch sử Việt Nam đã ghi lại “Trong giai đoạn Phùng Nguyên, kỹ thuật tạo chế đồ đá đã đạt đến trình độ cực thịnh. Những chiếc rìu, vồ đục... quy mô to nhỏ khác nhau, được chế tạo bằng cách mài, cưa khoan, rất hoàn thiện. Những vòng tay, hoa tai, hạt chuỗi... bằng đá được chau chuốt, tiện, gọt tinh vi. Những loại hình đồ gốm nồi, bát, cốc, vò... có hình dáng đẹp, chắc, khoẻ, phần nhiều đã được chế tạo từ bàn tay. Mặt ngoài đồ gốm phủ đầy hoa văn trang trí với những đường vạch sắc sảo, những nét cong uyển chuyển, mềm mại, được phối trí, đối xứng và hài hòa. Đó là một biểu hiện về óc thẩm mỹ khá cao của người Việt Nam lúc bấy giờ....” Có thể thấy vào giai đoạn Phùng Nguyên cách đây gần năm nghề gốm ở nước ta đã phát triển mạnh. Cho đến một thời kỳ của nước Văn Lang, thời Âu Lạc, kỹ nghệ gốm đã phát triển mạnh với những tác phẩm chế tác cực kì tinh xảo. Song, thời kì thịnh vượng nhất của nghề gốm là vào thời kỳ Lý - Trần thế kỷ XI - XIV. Thời điểm này, nước ta phát triển hưng thịnh, quân sự, kinh tế, văn hóa đều có những bước tiến mạnh mẽ cũng như những kĩ nghệ cải tiến. Thời điểm đó nghề gốm đã minh chứng được sức ảnh hưởng khi có mặt ở khắp các tỉnh thành, nên hiện nay ven các dòng sông người ta vẫn bắt gặp nhiều mảnh sành, mảnh gốm còn vương sót lại. Thậm chí, nhiều lò gốm sứ xuất hiện từ thời Lý - Trần mà đến nay vẫn còn hưng thịnh như làng gốm Bát Tràng Hà Nội, Quế Quyển Hà Nam Ninh, Thổ Hà, Phù Lãng Bắc Ninh, Hương Canh Vĩnh Phúc, Chum Thanh Thanh Hóa... Tuy nhiên với mỗi vùng sẽ lại có những kĩ nghệ gốm sứ riêng không trùng lặp và đặc trưng của gốm sứ ở mỗi vùng lại khác nhau đã tạo thêm sự đa dạng và phong phú cho công nghệ gốm Việt Nam. Bởi vì nguyên liệu chính của gốm là phù sa nên không có gì lạ khi các làng nghề gốm đều phát triển dọc sát các triền sông để tiện cho việc lấy nguyên liệu chuyên chở về cơ sở sản xuất. Theo tài liệu giới thiệu Lịch sử nghề gốm ở Thổ Hà của Ty Văn hóa Hà Bắc, và tài liệu Tìm hiểu nghề gốm ở Bát Tràng, tư liệu đánh máy của Viện Mỹ thuật đã ghi chi tiết như sau “Vào khoảng thời Lý - Trần có người đỗ Thái học sinh đặc biệt chức Thái học sinh thì mới có từ thời Trần được cử đi sứ nhà Tống Trung Quốc là Hứa Vĩnh Kiều, người làng Bồ Bát Thanh Hóa, Đào Trí Tiến, người làng Thổ Hà Hà Bắc, Lưu Phong Tú, người làng Kẻ Sặt Hải Dương. Cả ba ông này, khi đi sứ đã học được nghề sứ gốm. Khi về nước, ba ông chọn ngày lành tháng tốt lập đàn ở bên sông Hồng làm lễ truyền nghề cho dân làng. Công nghệ có được phân như sau Ông Kiều về Bồ Bát, ông Tiến về Thổ Hà, ông Tú về Phù Lãng, và - Làng Bồ Bát chuyên chế các hàng gốm sắc trắng. - Làng Thổ Hà chuyên chế các hàng gốm sắc đỏ. - Làng Phù Lãng chuyên chế các hàng gốm sắc vàng, thẫm. Nửa năm sau nghiên cứu, chế tạo thành công, ba ông lấy các đồ gốm do tay mình chế được, dâng Vua xem. Nhà Vua thấy sản vật đẹp, liền khen thưởng các quan sứ thần bốn chữ “Trung ái Quán Thế” và phong cho ba ông danh “Khởi nghệ tiên triết”. Tục truyền, dịp này, dân làng ở ba nơi đều tế lễ sầm uất và linh đình. Sau dâng ba tuần rượu, dân chúng nhảy nhót hoan hô để biểu dương các ngài đem nghề về truyền cho dân. Sau khi ba ông mất, dân chúng ba nơi đều tôn ba ông là “Tổ sư”, tức “Tổ nghề”.” Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vẫn còn lưu giữ và trưng bày những đồ gốm, sứ của các thời đại để minh chứng cho sự hưng thịnh của đồ gốm ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là một trong những nghề chiếm vị trí quan trọng trong việc pgast triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Qua đó, những thế hệ sau sẽ có cái nhìn toàn diện và rõ nét về một nét văn hóa cực kì tinh tế của văn hóa Việt Nam. Hiện tại, ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam vẫn còn lưu giữ và trưng bày những đồ gốm, sứ của các thời đại để minh chứng cho sự hưng thịnh của đồ gốm ở nước ta. Ảnh minh hoạ Một số làng gốm truyền thống nổi tiếng Việt Nam 1. Làng gốm Bát Tràng Làng gốm Bát Tràng xuất hiện vào khoảng thế kỷ 15, ngay bên cạnh dòng sông Hồng phù sa đã quá nổi tiếng và còn lưu truyền hoạt động đến tận ngày nay. Lúc đó, Bát Tràng là một gò đất cao gần cạnh sông thuận tiện cho việc đi lại và lấy nguyên liệu cho làng gốm. Trải qua nhiều biến cố lịch sử làng gốm Bát Tràng vẫn tồn tại và ngày càng phát triển. Hiện nay, làng gốm Bát Tràng nằm tại xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội đã trở thành một địa điểm được nhiều người ghé thăm để trải nghiệm những hoạt động làm gốm vô cùng thú vị tại đây. 2. Làng gốm Chu Đậu huyện Nam Sách, Hải Dương Đây là một trong số các làng nghề gốm sứ Việt Nam xuất hiện sớm nhất và cực kì nổi tiếng, nhắc đến cái tên Chu Đậu mọi người sẽ nghĩ ngay tới những sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài. Làng gốm Chu Đậu thuộc xã Thái Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương được dựng nên vào thế kỷ 13 và phát triển mạnh từ thế kỷ 14. Sau đó đến thế kỷ 17 chiến tranh liên miên đã khiến làng gốm này đã bị suy tàn và thất truyền. Phải đến năm 2001, gốm Chu Đậu mới được nghiên cứu và nỗ lực phục hồi các chất men, kĩ thuật, kiểu dáng đã trở thành một dấu ấn chuyển mình tiếp tục viết lên thời hoàng kim cho làng gốm Chu Đậu. Đặc trưng của gốm Chu Đậu là mang hơi hướng giá trị Phật giáo và Nho giáo trong từng sản phẩm, đây cũng là nét chấm phá và đặc điểm để nhận diện gốm Chu Đậu so với các làng gốm khác. 3. Làng gốm Phù Lãng huyện Quế Võ, Bắc Ninh Làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tồn tại song song cùng thời với làng gốm Bát Tràng. Tuy nhiên, các sản phẩm ở đây chủ yếu là những sản phẩm gia dụng được tạo hình thủ công trên bàn xoay bằng đất sét nguyên bản. Điểm khác biệt của làng gốm Phù Lãng là lớp men da lươn chỉ sử dụng men nâu, nâu đen, vàng nhạt, vàng thẫm… Màu men của gốm Phù Lãng cực kì bền vì dùng phương pháp đắp nổi theo hình thức chạm bong. 4. Làng gốm Thanh Hà Hội An Làng gốm Thanh Hà tại Hội An có tuổi đời khoảng 500 năm nơi đây nổi tiếng với các sản phẩm gốm đất nung bền đẹp. Nguyên liệu để làm nên các sản phẩm gốm ở đây chính là đất sét nâu dọc sông thu Bồn có độ dẻo và kết dính cao. Phần lớn các sản phẩm của làng gốm Thanh Hà đều có màu cam thẫm, nâu đỏ nhẹ và xương gốm xốp rất tinh xảo. 5. Làng gốm Thổ Hà Bắc Giang Ra đời và phát triển cùng thời với làng Bát Tràng làng gốm Thổ Hà có nét khá tương đồng với làng gốm Phù Lãng. Tuy nhiên, gốm ở đây không dùng men mà được nung ở nhiệt độ cao tự chảy men và thành sành. Các sản phẩm gốm thường có màu nâu sẫm, một sắc tím than trầm. Khi gõ vào sẽ nghe tiếng coong coong cứng như thép gang, các sản phẩm của gốm Thổ Hà cực kì bền khi được làm từ đất sét vàng, sét xanh, ít sạn và tạp chất nên dễ dàng tạo hình theo ý thích. 6. Làng gốm Phước Tích Thừa Thiên – Huế Đối với làng gốm Phước Tích các sản phẩm được làm chủ yếu từ loại đất sét màu xám đen, khá dẻo và dính với những hoa văn, chi tiết đơn giản. Đặc trưng của làng gốm Phước Tích là người thợ tạo hình thô sơ như thêu, nền đất, bàn chuốt, bàn xoay... Trước đây, gốm Phước Tích chuyên dùng để phục vụ cho Hoàng gia nhà Nguyễn nhưng về sau đã bị suy tàn nên hiện nay đang được nỗ lực khôi phục theo hướng sản xuất mỹ nghệ để nghề gốm tại đây không bị thất truyền đáng tiếc. Nghề gốm đã trở thành một nghề cao quý trong lịch sử cho đến hiện tại, không thể phủ nhận những giá trị văn hóa nghệ thuật mà gốm sứ mang lại. Ảnh minh hoạ Nghề gốm đã trở thành một nghề cao quý trong lịch sử cho đến hiện tại, không thể phủ nhận những giá trị văn hóa nghệ thuật mà gốm sứ mang lại. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần phải giữ gìn và phát huy các giá trị của gốm sứ Việt Nam tránh việc nghề này bị thất truyền. Nhân ngày Di sản Văn hóa Việt Nam 23/11, Bảo tàng Lịch sử quốc gia phối hợp với Hội Di sản Văn hóa Việt Nam và Sưu tập An Biên sẽ khai mạc trưng bày chuyên đề Gốm Việt Nam Một truyền thống riêng biệt - Nhìn từ Sưu tập An Biên vào ngày 19/11, công chúng có cơ hội thưởng lãm gần 70 hiện vật gốm men đặc sắc được lựa chọn từ bộ sưu tập cổ vật An Biên và một số hiện vật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Hành trình gốm Việt tại Triển lãm sẽ trải dài theo từng giai đoạn lịch sử. Bắt đầu với gốm Việt Nam 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Cách ngày nay trên năm, từ những kỹ thuật mới trong chế tác đồ gốm được phổ biến từ Trung Hoa, nghề gốm Việt Nam với trình độ và kinh nghiệm truyền thống sẵn có đã nhanh chóng tiếp thu, nắm vững và phát triển để tạo nên những sắc thái riêng biệt, trở thành một trong số ít các quốc gia có nghề sản xuất đồ gốm men ra đời sớm và phát triển liên hình nhà gốm, niên đại thế kỷ I-IIISự chuyển biến và đổi thay của nghề gốm trong giai đoạn này còn thể hiện ở quy mô và tổ chức sản xuất. Nếu như thời Đông Sơn trước đó, chúng ta chưa tìm thấy một trung tâm sản xuất nào, bởi những sản phẩm gốm chủ yếu là tự túc, tự cấp, không có sự chuyên biệt, với quy trình sản xuất đơn giản và gọn nhẹ, thì đến giai đoạn này, hàng loạt trung tâm sản xuất có quy mô lớn đã ra đời. Những cuộc khai quật di tích lò gốm cổ ở Tam Thọ Thanh Hoá, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Lũng Ngoại, Đồng Đậu Vĩnh Phúc cho thấy những thợ thủ công làm gốm thời kỳ này đã kết hợp được truyền thống gốm Đông Sơn với kỹ thuật sản xuất gốm tiên tiến đương thời của Trung Hoa để sản xuất ra dòng gốm mang sắc thái bản gốm thế kỷ I-IIIĐặc trưng của đồ gốm thời kỳ này có xương gốm dày, men mỏng thường không phủ hết đồ vật, men màu vàng ngà, trắng nhạt, trắng xám; trang trí hoa văn in nổi ô trám, hoa văn xương cá hoặc lá dừa, hình thoi, chữ S, văn chải, văn sóng nước... một số ấm, âu, hũ có trang trí hình cánh sen, chim, cá, đầu gà, đầu voi. Thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ VI, sản xuất đồ gốm ở khu vực phương Nam có những bước phát triển vượt bậc, xuất hiện một dòng gốm mới đó là gốm men trắng, men trắng xanh được nung với nhiệt độ cao, xương và men gốm cứng. Đây là một cuộc cách mạng trong sản xuất gốm sứ ở tầm mức thế nghiên cứu khai quật các lò gốm cổ ở Cổ Loa Hà Nội, Đại Lai, Luy Lâu, Đương Xá Bắc Ninh, Thanh Lãng, Đồng Đậu, Lũng Hòa Vĩnh Phúc, Tam Thọ Thanh Hóa thấy xuất hiện nhiều những mảnh gốm men trắng, men trắng xanh với loại hình phong phú. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, Việt Nam thời kỳ này cũng đã bắt kịp và trở thành một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có thể sản xuất được loại gốm chất lượng cao gốm thế kỷ I-IIITriển lãm cũng giới thiệu giai đoạn 2 của gốm Việt Nam thế kỷ XI-XIV Từ thế kỷ thứ 10, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng các nhà nước phong kiến dân tộc độc lập. Nghề làm đồ gốm có sự phát triển mạnh mẽ, đóng vai trò quan trọng trong phục hồi và phát triển kinh tế, văn hoá, tạo thành bản sắc riêng có, loại hình phong phú, trang trí đa dạng, độc đáo về mỹ thuật. Xuất hiện những lò gốm chuyên sản xuất sản phẩm phục vụ cung đình ngay tại khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long. Các lò gốm cũng đã được tìm thấy ở Thăng Long, Hải Dương, Nam Định, Thanh Hoá, Ninh gốm Việt Nam thời Lý - Trần đã phát triển mang tính độc lập, khám phá những đề tài trang trí mang tính bản địa của người Việt, đồng thời tiếp nhận, cải biến mạnh mẽ những yếu tố kỹ thuật, hình dáng, hoa văn đặc trưng của truyền thống sản xuất gốm sứ Trung Quốc thời Đường, Tống, tạo nên một trong những trang sử rực rỡ nhất của truyền thống sản xuất gốm sứ Việt liệu Gốm Hoa lam. Niên đại thế kỷ XIVĐồ gốm thời kỳ này được sản xuất phục vụ tiêu dùng từ cung đình đến dân gian, hình thành nhiều dòng gốm men với loại hình phong phú, trang trí đa dạng gốm men trắng, gốm men ngọc, gốm men xanh lục và vàng, gốm men nâu, gốm hoa nâu và cuối thế kỷ 14 xuất hiện gốm hoa men trắng rất phổ biến dưới thời Lý - Trần, có số lượng lớn, loại hình phong phú, nghệ thuật thẩm mỹ cao, trong số đó có nhiều loại được chế tác tinh xảo, hoa văn trang trí độc đáo mang tính biểu trưng cao quý như rồng, hoa sen, hoa cúc... Gốm men trắng có nhiều sắc độ khác nhau như trắng ngà, trắng đục, trắng sáng ngả xanh, bề mặt men nhẵn bóng, có những vết rạn nhỏ theo thời gian khiến cho nó mang một vẻ đẹp sâu lắng. Chất liệu Gốm men ngọc. Niên đại Thế kỷ XIII -XIVChất liệu Gốm hoa lam, niên đại thế kỷ XVKỹ thuật tạo hoa văn trên gốm men trắng cũng rất phong phú, biến ảo khôn lường khắc chìm, in khuôn, đắp nổi tạo cánh sen ngoài thân hoặc ấn lõm, khắc tạo múi dọc thân, trổ thủng... sử dụng kết hợp các kỹ thuật trên tạo nên sự thanh thoát, tinh tế, tinh xảo cho từng tác đoạn 3 của hành trình gốm Việt là từ thế kỷ XV-XVII, đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ mối quan hệ giao lưu thương mại giữa Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Đồ gốm là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, tạo điều kiện cho nghề sản xuất gốm ở Việt Nam phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng với nhiều trung tâm sản xuất mang tính chuyên môn hoá, nhiều chủng loại đồ gốm đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao như các trung tâm sản xuất gốm sứ nổi tiếng Thăng Long, Bát Tràng Hà Nội, Nam Sách, Bình Giang Hải Dương... Kết quả khai quật khảo cổ học ở tàu cổ Cù Lao Chàm thu được trên hiện vật gốm Việt Nam xuất khẩu với loại hình phong phú, mỹ thuật đặc sắc; cùng với kết quả khai quật các lò gốm vùng Nam Sách, Bình Giang Hải Dương, đồ gốm tàu cổ Cù Lao Chàm góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về lịch sử đồ gốm Việt liệu Gốm. Niên đại thế kỷ VIChất liệu Gốm men trắng. Niên đại Thế kỷ XII-XIIIChất liệu Gốm hoa nâu. Niên đại Thế kỷ XIII-XIVCuối cùng là Gốm Bát Tràng thế kỷ XVIII- XIX. Bát Tràng - một làng gốm truyền thống có từ thế kỷ 14 cũng bị ảnh hưởng, thị trường gốm xuất khẩu không còn, nhưng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ có một thị trường tiêu thụ rộng rãi trong nước với những đồ gia dụng, đồ thờ, đồ trang trí, đồ đặt hàng phù hợp thị hiếu. Cùng khám phá hành trình của gốm Việt Nam, công chúng cũng sẽ tìm hiểu được những thăng trầm của từng giai đoạn lịch sử. Để thêm yêu mến và trân trọng những sản phẩm văn hóa mang dấu ấn, bản sắc văn hóa Việt./.

gốm sứ việt nam qua các thời kỳ